Tìm kiếm Blog này

Thứ Năm, 19 tháng 6, 2014

Việt Nam đã có phương án phòng bị với Nam Hải số 9

Thiếu tướng Nguyễn Quang Đạm – Tư lệnh Cảnh sát biển cho biết, đơn vị này đã nhận chỉ đạo từ cấp trên về việc theo dõi sát sao giàn khoan “Nam Hải số 9”.

Trao đổi thêm với PV chiều 19/6 xung quanh thông tin Trung Quốc kéo giàn khoan thứ 2 đến cửa Vịnh Bắc Bộ, Thiếu tướng Nguyễn Quang Đạm nói: Cảnh sát biển đã có phương án phòng bị tất cả các tình huống. Tuy nhiên, “theo chủ trương chung, chúng tôi nắm được để chuẩn bị thôi”, vị Tư lệnh nói.


Giàn khoan “Nam Hải số 9″ của Trung Quốc. Ảnh: Shipspotting

Theo Thiếu tướng Đạm, mọi hành vi nôn nóng sẽ không giải quyết được vấn đề. Đặc biệt, với Trung Quốc, Việt Nam rất cần sự kiên trì, sử dụng đồng thời tất cả các biện pháp.

Trả lời câu hỏi của phóng viên về những quan ngại xung quanh việc giàn khoan thứ 2 này có thể dịch chuyển bất cứ lúc nào, vị Tư lệnh Cảnh sát biển cho biết: “Chúng ta còn quan ngại nhiều thứ chứ đâu phải chỉ có một vấn đề giàn khoan”.

Tối qua (18/6) trên website của Cục Hải sự Trung Quốc cho biết, ngày 18-20/6 đưa giàn khoan “Nan Hai Jiu Hao” (Nam Hải số 9) vào Biển Đông.

Theo đó, giàn khoan “Nam Hải số 9″ sẽ được tàu lai dắt kéo từ toạ độ 17 độ 38 phút vĩ Bắc – 110 độ 12 phút 3 kinh Đông tới vị trí có tọa độ 17 độ 14 phút 6 vĩ Bắc – 109 độ 31 phút kinh Đông trên Biển Đông, với tốc độ 4 hải lý/giờ.

Theo khẳng định của Thiếu tướng Nguyễn Quang Đạm – Tư lệnh Cảnh sát biển, giàn khoan này chưa nằm trong vùng nhạy cảm, hiện nằm sâu trong thềm lục địa của Trung Quốc từ 50 – 60 hải lý; cách đảo Cồn Cỏ của Việt Nam 130 hải lý, cách đảo Lý Sơn 140 hải lý.

Tuy nhiên, lực lượng Cảnh sát biển cũng đã lên phương án kiểm soát tình hình xung quanh những vấn đề liên quan đến biển Đông.

Ngày 1/5/2014, Trung Quốc đã đưa giàn khoan Hải Dương 981 và 3 tàu dịch vụ dầu khí di chuyển từ Tây Bắc đảo Tri Tôn (thuộc quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam) xuống phía Nam. Đến 16h ngày 2/5, giàn khoan Hải Dương 981 được thả trôi tại toạ độ 15.2958 vĩ bắc – 111.1206 kinh Đông, phía Nam đảo Tri Tôn, sâu vào trong thềm lục địa của Việt Nam 80 hải lý, cách đảo Lý Sơn 119 hải lý, cách bờ biển Việt Nam 130 hải lý.

Để bảo vệ giàn khoan này, Trung Quốc đã huy động hàng trăm tàu, máy bay… đến đây ngăn cản, đâm va tàu chấp pháp và tàu cá của Việt Nam.

Chưa đầy 1 tháng sau, ngày 27/5, Trung Quốc đã di chuyển giàn khoan 981 đến vị trí mới. Theo đó, nước này neo giàn khoan ở cách đảo Tri Tôn về hướng Đông Đông Nam 25 hải lý, cách vị trí cũ 23 hải lý theo hướng Đông Đông Bắc, cách đảo Lý Sơn khoảng 150 hải lý. So với vị trí ban đầu, giàn khoan này đã di chuyển hơn 40 km.

Sau nhiều lần Việt Nam yêu cầu Trung Quốc rút giàn khoan và các tàu vi phạm chủ quyền, Trung Quốc lại đưa thêm giàn khoan thứ 2 vào cửa vịnh Bắc Bộ – nơi hai nước đang bàn để phân định. Vị trí hạ đặt cách đảo Cồn Cỏ của Việt Nam 130 hải lý, cách đảo Lý Sơn 140 hải lý.


Nguồn: Nguyentandung.org

Biển Đông : Không nên để Trung Quốc tự do lợi dụng Liên Hiệp Quốc

Sau khi đưa giàn khoan HD-981 vào vùng thềm lục địa của Việt Nam, và bị tố cáo trước công luận quốc tế, Trung Quốc đã phản pháo bằng một bản "tuyên bố lập trường" gởi lên Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc. Trong bài phân tích : "Chiến dịch tuyên truyền của Trung Quốc và Biển Đông : Cứ thử xem !", trên báo The Diplomat ngày 16/06/2014, giáo sư Carl Thayer, chuyên gia về Biển Đông thuộc Học viện Quốc phòng Úc cho đấy là một mưu toan lợi dụng Liên Hiệp Quốc "để được cả chì lẫn chài" và cần phải vạch trần. RFI xin giới thiệu toàn văn bài viết.


Đòi hỏi chủ quyền trên biển của các quốc gia ven Biển Đông. Ảnh : Bộ Quốc phòng Mỹ

Cuộc đối đầu trên biển giữa Trung Quốc và Việt Nam về vụ hạ đặt giàn khoan HYSY 981 (HD-981) trong vùng biển tranh chấp ở Biển Đông - bắt đầu từ đầu tháng Năm - đã bước vào tuần lễ thứ bảy. Ngày 09/06/2014, Trung Quốc bất ngờ mở một mặt trận mới, khi ông Vương Dân (Wang Min), Phó Đại sứ Trung Quốc tại Liên Hiệp Quốc, chuyển đến Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc Ban Ki Moon một bản tuyên bố lập trường chính thức về cuộc tranh chấp, với yêu cầu cho lưu hành văn bản đó trong toàn bộ 193 thành viên Liên Hợp Quốc.

Hành động quốc tế hóa tranh chấp với Việt Nam của Trung Quốc không thể hiện một sự thay đổi trong chính sách lâu dài của Bắc Kinh, theo đó tranh chấp trên biển chỉ có thể được giải quyết một cách song phương thông qua đàm phán và tham vấn trực tiếp giữa các bên liên quan. Một hôm sau khi Trung Quốc gửi văn kiện trên, bà Hoa Xuân Oánh, một phát ngôn viên Bộ Ngoại giao lại tuyên bố rằng Trung Quốc bác bỏ đề nghị trọng tài của Liên Hiệp Quốc về cuộc tranh chấp với Việt Nam.

Như vậy tại sao Trung Quốc lại đưa cuộc tranh chấp với Việt Nam ra trước Liên Hiệp Quốc ?

Năm 2003, Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc và Quân ủy Trung ương chính thức thông qua học thuyết "Tam chủng chiến pháp" (san zhong zhanfa - 三种 战 法). Học thuyết này là một nhân tố thiết yếu của cuộc chiến tranh thông tin.

Theo công trình nghiên cứu "Ba chiến pháp của Trung Quốc" do Timothy A. Walton viết năm 2012 cho văn phòng tư vấn Delex Consulting, Studies and Analysis, chiến pháp của Trung Quốc bao gồm ba thành tố : chiến tranh tâm lý, chiến tranh thông tin, và chiến tranh pháp lý. Chính thành tố thứ ba này là cơ sở cho bản tuyên bố lập trường của Trung Quốc tại Liên Hiệp Quốc.

Theo Walton, chiến pháp thông tin là một chiến lược được thiết kế nhằm tác động lên dư luận quốc tế, tạo hậu thuẫn cho Trung Quốc và làm nản lòng đối thủ trong việc theo đuổi các hành động trái với lợi ích của Trung Quốc.

Bản tuyên bố lập trường của Trung Quốc đã được gửi đến Liên Hiệp Quốc để đánh bật các nỗ lực tuyên truyền và để cô lập Việt Nam. Đại đa số các thành viên của Liên Hiệp Quốc đều không có lợi ích trực tiếp trong cuộc tranh chấp lãnh thổ ở Biển Đông. Nhiều nước Đông Nam Á vốn e ngại các hành động của Trung Quốc, sẽ né tránh khi bị buộc phải công khai bày tỏ lập trường về vấn đề này.

Chiến pháp pháp lý, theo Walton, là một chiến lược sử dụng luật pháp Trung Quốc và quốc tế để tôn cao nền tảng pháp lý của việc Trung Quốc khẳng định quyền lợi của mình. Bản tuyên bố lập trường của Trung Quốc đầy rẫy những dẫn chứng trong luật pháp quốc tế được chọn lọc để hỗ trợ cho lập trường của Trung Quốc.

Lập luận thiếu nhất quán và tự mâu thuẫn

Thoạt đầu, Trung Quốc đã bảo vệ việc hạ đặt giàn khoan dầu bằng cách nói rằng nó nằm trong vùng lãnh hải của Trung Quốc. Trung Quốc lưu ý rằng giàn khoan HD-981 nằm cách đảo Tri Tôn, ở phía cực tây quần đảo Hoàng Sa 17 hải lý. (Tuy nhiên), theo Công ước Liên Hiệp quốc về Luật Biển (UNCLOS), vùng lãnh hải chỉ rộng 12 hải lý tính từ đường cơ sở ven biển của một quốc gia.

Tuyên bố ngày 06/06/2014 của Trung Quốc đã sửa chữa sai lầm đó bằng cách cho rằng HD-981 nằm trong vùng tiếp giáp lãnh hải của Trung Quốc. Cách nói mới đó tuy nhiên, đã thiếu cơ sở pháp lý.

Theo UNCLOS, mục đích duy nhất của vùng tiếp giáp lãnh hải là để cho phép một quốc gia ven biển "thực hiện quyền kiểm soát cần thiết nhằm : (a) ngăn chặn hành vi vi phạm luật lệ và quy định về hải quan, tài chánh, xuất nhập cảnh hoặc y tế trên lãnh thổ hoặc lãnh hải của mình; (b) trừng phạt các hành vi vi phạm các luật lệ và quy định nói trên được tiến hành trước đó trên lãnh thổ hoặc lãnh hải của mình."

Trung Quốc cũng tìm cách gây nhiễu trong cuộc tranh chấp với Việt Nam bằng cách thúc đẩy lập luận theo đó vị trí của HD-981 gần quần đảo Hoàng Sa hơn là bờ biển Việt Nam. Tuyên bố lập trường của Trung Quốc chẳng hạn, đã cho rằng HD-981 đang hoạt động ở nơi cách cả đảo Tri Tôn lẫn đường cơ sở xung quanh quần đảo Hoàng Sa 17 hải lý, và cách bờ biển Việt Nam từ 133 đến 156 hải lý.

Nhưng cùng lúc, Trung Quốc lại tuyên bố chủ quyền đối với bãi cạn Scarborough, nằm gần Philippines hơn là vùng đất Trung Quốc gần nhất. Theo luật pháp quốc tế, yếu tố "gần" đơn thuần không đủ để chứng minh chủ quyền.

Dùng luật quốc tế cho mình, nhưng không cho nước khác áp dụng

Tuyên bố lập trường của Trung Quốc gởi lên Liên Hợp Quốc hiện đang làm suy yếu việc Bắc Kinh sử dụng chiến tranh pháp lý để thúc đẩy các đòi hỏi chủ quyền. Ví dụ, tuyên bố của Trung Quốc viết :

"Các vùng biển giữa quần đảo Tây Sa (Hoàng Sa) của Trung Quốc và bờ biển đất liền Việt Nam vẫn chưa được phân định. Hai bên vẫn chưa tiến hành phân định vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) và thềm lục địa trong vùng biển này. Cả hai bên đều có quyền khẳng định vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa theo quy định của UNCLOS."

Nếu quả thực là như vậy, Trung Quốc nên theo các quy định của UNCLOS để xử lý các yêu sách chồng lấn. Cả Trung Quốc lẫn Việt Nam nên có những dàn xếp tạm thời về các vùng tranh chấp cho đến khi đạt được thoả thuận về phân định. Trong thời gian đó, mỗi bên nên cấm làm thay đổi hiện trạng và đe dọa hoặc sử dụng vũ lực.

Rõ ràng là việc Trung Quốc hạ đặt giàn khoan dầu trong vùng biển tranh chấp đã vi phạm nguyên tắc pháp lý quốc tế.

Tuyên bố lập trường của Trung Quốc cũng đã làm suy yếu tính hợp pháp của họ khi Bắc Kinh lập luận rằng luật pháp quốc tế không thích hợp. Văn bản của Trung Quốc ghi nhận :

"Tuy nhiên, vùng biển này sẽ không bao giờ trở thành vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam, cho dù có áp dụng bất kỳ nguyên tắc (của luật pháp quốc tế) nào trong việc phân định."

Đại sứ Trung Quốc tại Úc, Mã Triều Húc (Ma Zhaozu), đã góp phần vào cuộc chiến tranh thông tin của Bắc Kinh bằng cách lặp lại các lập luận tương tự trong một bài ý kiến trên báo Úc The Australian ngày 13/06/2014. Nhân vật này cho rằng khu vực tranh chấp chưa bao giờ được phân định và "dù có áp dụng bất kỳ nguyên tắc nào [của luật pháp quốc tế], các vùng biển liên quan sẽ không bao giờ trở thành một phần của vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam."

Phải đưa vấn đề ra trước Hội đồng Bảo an !

Các thành viên của cộng đồng quốc tế đang lo ngại về căng thẳng leo thang giữa Trung Quốc và Việt Nam và tác động đối với an ninh khu vực cần phải nắm lấy việc Trung Quốc chính thức đệ trình bản tuyên bố lập trường lên Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc. Các nước nên vận động để vấn đề này được đưa lên Hội đồng Bảo an.

Không được để cho Trung Quốc theo đuổi cuộc chiến tranh thông tin với mục đích thu lợi cả hai đầu - cho lưu hành một bản tuyên bố lập trường tại Liên Hiệp Quốc để chứng minh tính chất nghiêm túc của họ trong cuộc tranh chấp với Việt Nam, và lại từ chối đề nghị trọng tài của Liên Hiệp Quốc. Mỹ và Úc nên thúc đẩy một cuộc tranh luận tại Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc. Nhật Bản và các cường quốc hàng hải khác có quyền lợi trong việc Biển Đông ổn định nên tham gia vào việc thúc đẩy đó.

Trung Quốc phải bị đẩy vào một vị thế khó chịu khi phải phản đối bất kỳ một cuộc tranh luận nào tại Hội đồng Bảo an, qua đó từ bỏ mưu toan sử dụng Liên Hiệp Quốc cho mục đích tuyên truyền, hoặc phải phủ quyết mọi nghị quyết phát sinh từ một cuộc tranh luận trong Hội đồng Bảo an chỉ trích hành động của Trung Quốc ở Biển Đông. 


RFI

Thứ Tư, 18 tháng 6, 2014

Quân đội Bắc Triều Tiên khoe cơ bắp với tên lửa Kh-35

Một cơ quan nghiên cứu Mỹ ngày 17/06/2014 cho biết Bắc Triều Tiên có thể đang sở hữu loại hỏa tiễn là bản sao tên lửa chống hạm KH-35 của Nga. Đây là bước mới nhất trong nỗ lực tăng cường khả năng tấn công trên biển của Bình Nhưỡng.

Một phim tuyên truyền của Nhà nước được phổ biến trên mạng xã hội kể cả YouTube có một đoạn ngắn cho thấy một hỏa tiễn được bắn ra từ một chiến hạm. Chuyên gia về kiểm soát vũ khí Jeffrey Lewis trên trang web 38 North của Viện Mỹ-Hàn thuộc trường đại học Johns Hopkins cho rằng, loại vũ khí này có thể đánh dấu « một tiềm năng gây bất ổn mới » của Bắc Triều Tiên.


Hình ảnh tên lửa được cho là Kh-35 xuất hiện ở phút thứ 48:09

Ông Lewis nhận dạng loại hỏa tiễn trên là bản sao của tên lửa KH-35, loại hỏa tiễn hành trình đối hạm do Nga sản xuất trong thập niên 80 và 90. Cho dù tầm bắn và trọng tải của hỏa tiễn KH-35 còn dưới ngưỡng của Hệ thống Định vị Toàn cầu, nhưng việc xuất khẩu tên lửa này vi phạm lệnh trừng phạt của Liên Hiệp Quốc.

Chuyên gia này nói : « Mặc dù khả năng nhiều nhất là Nga bán trực tiếp, nhưng cũng có thể Bắc Triều Tiên mua được từ một nước thứ ba như Miến Điện ».

Ngoài Miến Điện, Nga còn xuất khẩu hỏa tiễn hành trình có thể đặt cả trên biển và đất liền KH-35 sang Việt Nam, Ấn Độ, Algérie và Venezuela. Theo ông Jeffrey Lewis, « Khả năng Bắc Triều Tiên có thể bán lại kỹ thuật tên lửa KH-35 cho các nước khác là một giả thiết đáng ngại ».

Việc Bình Nhưỡng triển khai các loại vũ khí quy ước đã bị hồ sơ vũ khí hạt nhân làm lu mờ. Tháng trước, trang 38 North đã công bố các hình ảnh chụp từ vệ tinh cho thấy hai chiến hạm mới của Bắc Triều Tiên, thuộc loại lớn nhất kể từ 25 năm qua, và nhận định hai tàu chở trực thăng mới này là « cảnh báo quan trọng » về hiệu quả của các biện pháp trừng phạt.

Tuy nhiên các tấm ảnh do hãng tin chính thức KCNA công bố hôm qua 16/6 cho thấy mặt trái của năng lực Hải quân Bắc Triều Tiên : lãnh tụ Kim Jong Un bước lên tháp pháo một chiếc tàu ngầm lớp Romeo đã rỉ sét, do Liên Xô sản xuất từ thập niên 50. Phát ngôn viên Bộ Quốc phòng Hàn Quốc Kim Min Seok bình luận : « Các tàu ngầm của Hải quân chúng tôi vượt xa loại này ».

Video: YouTube| Bài viết: Thuymyrfi.blogspot.com

Ánh mắt có lửa

Phó Thủ tướng Việt Nam Phạm Bình Minh và Ủy viên Quốc vụ viện Trung Quốc Dương Khiết Trì đã có cuộc hội đàm tại Hà Nội vào sáng nay (18/6).

Nội dung cuộc hội đàm đã và đang được loan tải trên các phương tiện truyền thông, tuy nhiên, một bức ảnh của phóng viên hãng tin Reuters chụp Phó Thủ tướng Phạm Bình Minh khi bắt tay chuẩn bị hội đàm với Dương Khiết Trì, đã gây ấn tượng mạnh đối với người xem.


Bởi chính ánh mắt của Phó Thủ tướng Phạm Bình Minh đối với người đại diện cho đất nước xâm lược Việt Nam. Quả là ánh mắt có lửa. Một ánh mắt không dịu chút nào. Một ánh mắt chứa nhiều thông điệp. Một ánh mắt kể nhiều tâm trạng của hàng chục triệu người trong đó. Không chỉ những người đang sống mà còn cả những người đã ngã xuống vì chủ quyền Tổ quốc Việt Nam.

Đã lâu rồi, Việt Nam chúng ta mới lại có một ứng xử xử ngoại giao tuyệt vời đến thế! Qua tấm ảnh cùng với cảm nhận của người xem, thì quả thật ánh mắt của Phó Thủ tướng Phạm Bình Minh đã nói lên tất cả những gì mà người dân Việt Nam muốn gửi đến Nhà cầm quyền xâm lược, bành trướng bá quyền Trung Quốc! Rằng nếu căng thẳng Biển Đông có thể hạ nhiệt và Trung Quốc rút giàn khoan sau chuyến thăm của ông Dương Khiết Trì thì đó là điều Việt Nam rất hoan nghênh. Tuy nhiên, với những thông điệp như Tân Hoa Xã và Chinadaily đưa ra về “nguyên tắc và lập trường của Trung Quốc” mà “lập trường” của họ là đường lưỡi bò thì Việt Nam không thể chấp nhận. Việt Nam sẽ “không bao giờ đánh đổi chủ quyền lãnh thổ thiêng liêng lấy hữu nghị viển vông, lệ thuộc”.

Nếu phân tích kỹ hơn sẽ thấy ánh mắt của Phó Thủ tướng Phạm Bình Minh rất quyết liệt và không nhượng bộ, đó là thái độ toát lên khi ta nhìn vào phần Cổ và Cằm của ông gằn lại cho người xem cảm giác quyết định, như ông đã từng tuyên bố: “Dứt khoát Trung Quốc phải rút tàu và giàn khoan!”.

Quan sát kỹ Phó thủ tướng Phạm Bình minh, khi Cằm và Cổ ở tư thế này, lồng Ngực sẽ căng phồng sức mạnh với huyết khí hào hùng chảy trong người. Cộng thêm ánh mắt sắc lạnh nhìn thắng vào đối phương như “bắt sống cả ý đồ” của Trung Quốc, cho ta thấy được sự hiên ngang bất khuất của Việt Nam. Còn ông Dương Khiết Trì thì có một cái nhìn cúi mày đầy thâm hiểm. Rắp tâm. Nhưng thiếu tự tin.

Tấm hình nói lên tất cả. Kẻ tiểu nhân không dám nhìn thẳng vào đôi mắt chính nghĩa. Những hành động côn đồ nhằm vớt lại chút sĩ diện chỉ làm Trung Quốc chìm thêm trong vũng bùn mà họ tạo ra.

Báo Singapore: Nếu có chiến tranh Việt – Trung, Trung Quốc sẽ chịu thiệt hại nặng nề nhất

Căng thẳng ngoài Biển Đông không ngừng gia tăng, các nước láng giềng trong khu vực đều ở trong trạng thái nguy hiểm. Nếu Trung – Việt phát sinh xung đột, tuyến đường thương mại tại Biển Đông theo đó cũng bị gián đoạn, kéo theo nền kinh tế khu vực ASEAN thậm chí là thế giới cũng bị ảnh hưởng không hề nhỏ.

Theo phương tiện truyền thông Singapore, tuyến đường hàng hải trên Biển Đông là một trong những tuyến đường thương mại nhộn nhịp nhất trên thế giới và có nguy cơ trở thành một chiến trường trên thế giới. Cùng với vấn đề chủ quyền ngày càng kịch liệt ngoài Biển Đông giữa Trung Quốc và các nước láng giềng, tuyến đường hàng hải khu vực này chắc chắn cũng bị ảnh hưởng, đây là một vấn đề lớn cần được quan tâm.

Tuy nhiên, theo chuyên gia phân tích thuộc công ty tư vấn vận tải biển Drewry Shipping Consultants ở Singapore – Krishna cho biết, Trung Quốc – Việt Nam nếu phát sinh xung đột, nền kinh tế Trung Quốc tất nhiên sẽ phải gánh chịu tổn thất nặng nề nhất, do đó đây không phải là phương sách cuối cùng của Trung Quốc, Trung Quốc sẽ không đưa ra hành động nguy hiểm như vậy.


Dòng chảy thương mại dầu thô tại Biển Đông năm 2011 cho thấy quy mô và tầm quan trọng của tuyến hàng hải biển Đông, nếu có xung đột, Trung Quốc sẽ là nước chịu thiệt hại nhiều nhất

Krishna nói: “Nếu (tuyến đường hàng hải) gặp phải một sự trở ngại hoặc can thiệp nào đó, thì đều không có lợi cho Trung Quốc, Nhật, Hàn Quốc hoặc Đài Loan… nhưng tôi không lo lắng về vấn đề này. Tôi cho rằng tình huống như vậy sẽ không xảy ra”.

Krishna cho rằng, tuyến đường hàng hải tại Biển Đông đại đa số đều cập bến Trung Quốc hoặc bắt nguồn từ Trung Quốc, nếu xung đột xảy ra, sẽ làm ảnh hưởng đến tuyến đường thương mại, và trong tất cả các quốc gia các tuyên bố chủ quyền đối với vùng biển này, thì Trung Quốc là nước sẽ chịu thiệt hại nhiều nhất.

Ông Shivaji Das, Phó Chủ tịch công ty tư vấn Frost and Sullivan, có trụ sở tại Singapore cho biết, nhìn từ lịch sử thế giới cận đại, mối đe dọa của tự do hàng hải đa phần đến từ các hoạt động cướp biển, và chiến tranh sẽ làm ảnh hưởng đến tuyến đường thương mại tại Biển Đông, mà ông lại cho rằng “tình huống như vậy sẽ không xảy ra vì đối với mỗi quốc gia, tuyến đường thương mại biển là rất quan trọng”.

Ông nói: “Mỗi quốc gia có vùng đặc quyền kinh tế riêng, nhưng họ vẫn cho phép các tàu tự do qua lại. Tự do hàng hải sẽ không bị ảnh hưởng trừ khi khu vực phát sinh xung đột”.

Các phần tử vũ trang miền Bắc Iraq gần đây tăng cường tiếp cận Thủ đô Baghdad, khiến cho giá dầu toàn cầu tăng cao. Biển Đông được cho là con đường vận chuyển dầu khí chủ yếu, mặc dù tình hình lãnh thổ tăng cao, nhưng vẫn chưa đủ làm ảnh hưởng đến giá dầu thế giới.

Nguồn: Nguyentandung.org

Ông Putin đồng ý bán S-400 cho TQ

Tổng thống Vladimir Putin đã chấp thuận các điều khoản để bán hệ thống phòng thủ tên lửa phòng không tiên tiến nhất của Nga cho Trung Quốc, theo các hãng truyền thông của Nga đưa tin.


Hệ thống tên lửa phòng không S-400 Triumf.

Theo kênh truyền hình thương mại RBK TV của Nga, Tổng thống Nga Putin đã chấp nhận bán từ hai đến bốn hệ thống phòng thủ tên lửa và trên không S-400 cho Trung Quốc. Nếu đây là sự thực, Trung Quốc sẽ là khách hàng nước ngoài đầu tiên mua hệ thống phòng thủ hiện đại này. Hiện, Trung Quốc đang triển khai một số hệ thống phòng thủ S-300 từ thời Liên Xô.

Mặc dù các cuộc đàm phán đang diễn ra, một vài người cho rằng, Nga không nên bán cho Trung Quốc hệ thống tên lửa đất đối không S-400 vì nhiều lý do.

Đầu tiên, có nhiều báo cáo cho rằng Nga có kế hoạch khấu trừ tất cả doanh số bán hàng ra nước ngoài của S-400 cho đến khi đủ đáp ứng nhu cầu quân đội của Moscow, có thể sau thập kỷ này.

Quan trọng hơn, có rất nhiều quan ngại dấy lên trong quân đội Nga cho rằng Trung Quốc sẽ mua một số hệ thống nhằm mục đích ăn trộm công nghệ và sao chép lại thành một phiên bản nội địa. Điều này cũng đã từng xảy ra với những hệ thống quân sự Nga bán cho Trung Quốc trong quá khứ.

Về vấn đề này, Nga và Trung Quốc sẽ ký Thỏa thuận bảo vệ tài sản và trí tuệ mạnh mẽ hơn (IPP). Một thỏa thuận IPP đã từng được ký vào năm 2008, nhưng các quan chức Nga sau đó đã hủy bỏ nó do còn vướng nhiều thiếu sót. Đến năm 2012, hai nước cũng ký một thỏa thuận IPP, vài chi tiết của thương vụ này đã được tiết lộ.

Vè hệ thống S-400, chuyên trang quân sự Jane cho hay, Nga và Trung Quốc hy vọng sẽ vượt qua những trở ngại về sao chép công nghệ bằng việc sử dụng thỏa thuận IPP và doanh số bán hàng. Nếu Trung Quốc mua một số lượng lớn hệ thống tên lửa S-400, ngành công nghiệp vũ trang của Nga sẽ ít chịu thiệt hại hơn trong trường hợp Bắc Kinh nhăm nhe sao chép lại công nghệ này.

S-400 có thể giúp nâng cấp đáng kể sức mạnh quân sự của Trung QUốc trong những điều kiện khác nhau. Không quốc gia nào bị ảnh hưởng nhiều hơn bởi hệ thống S-400 của Trung Quốc-vũ khí có pham vi tác động lên tới 400 kilometers. Các chuyên gia cho biết nó có thể giúp Bắc Kinh đạt được ưu thế trên không ở eo biển Đài Loan. York Chen, cựu thành viên của Hội đồng an ninh quốc gia của Đài Loan cho hay: “Khi S-400 cùng phối hợp với các máy bay chiến đấu đóng trên các căn cứ biển và đất liền của Trung Quốc, họ sẽ càng tự tin duy trì kiểm soát trên không, cũng tước đi khả năng chống phá có tổ chức của Lực lượng Không quân Đài Loan và ngăn chặn sự can thiệp của Mỹ.”

Trong khi Đài loan có thể chịu ảnh hưởng lớn nhất của S-400, không phải một họ phải đối chọi với tiềm lực mới này.

Nhật cũng không ưa gì sự xuất hiện của S-400 của Trung Quốc do vấn đề liên quan đến quần đảo Sensaku/Điếu Ngư. Tuy nhiên, ảnh hưởng của S-400 lên quyền kiểm soát của Nhật sẽ bị giảm bớt bởi thương vụ mua bán bay chiến đấu F-35 của Tokyo. Các máy bay chiến đấu đang được chế tạo để đối chọi với các hệ thống phong không tiên tiến.

Ấn Độ cũng bị S-400 đe dọa. Bởi vì hệ thống này có thể chống được tên lửa đạn đạo, việc Trung Quốc triển khai S-400 có thể đe dọa đến những răn đe quân sự chiến lược của Ấn Độ. Nếu Trung Quốc tung ra một cuộc không kích đầu tiên vào kho hạt nhân của Ấn Độ sẽ có thể quét sạch gần như mọi lực lượng chiến lược vì các hệ thống phòng thủ tên lửa như S-400 có khả năng chống lại những tên lửa tiềm tàng.

Thương vụ mua bán vũ khí hiện đại đáng chú ý này phải chăng chứng tỏ Nga-Trung đang tiến tới quan hệ đồng minh chiến lược?

Nguồn : Tin Mới

Giàn khoan làm biến đổi quan hệ Việt - Trung

"Sau sự kiện giàn khoan lần này, dù muốn hay không quan hệ giữa Việt Nam với Trung Quốc tất yếu đã chuyển sang một giai đoạn mới khác hẳn 23 năm trước kể từ khi hai nước bình thường hóa quan hệ", ông Chu Công Phùng bình luận.


Ông Chu Công Phùng, nguyên Bí thư Đại sứ quán Việt Nam tại Trung Quốc (1987 - 1991), nguyên đại sứ đặc mệnh toàn quyền Việt Nam tại Myanmar giai đoạn 2009-2012 trò chuyện cùng Tuần Việt Nam.
Trong họa có phúc

Thưa ông Chu Công Phùng, xin ông cho biết, trong cuộc đấu tranh chủ quyền biển đảo với Trung Quốc lần này, Việt Nam đã có được những bài học gì?

Theo tôi, có một số điều đáng suy ngẫm sau đây.
Thứ nhất: Mỗi khi Tổ quốc lâm nguy, dân tộc Việt Nam muôn người như một lại đoàn kết tạo thành một khối thống nhất. Hơn 90 triệu trái tim dân chúng Việt Nam và kiều bào ngoài nước đang hướng về Biển Đông.

Thứ hai: Trong cuộc đấu tranh pháp lý với Trung Quốc, tuy Trung Quốc "to giọng", nhưng họ không giành được sự ủng hộ nào từ dư luận quốc tế, kể cả Đài Loan có chung lập trường với Trung Quốc về Biển Đông.

Ngược lại, chúng ta đã giành được sự ủng hộ của dư luận từ các nước lớn Mỹ, Nhật, Tây Âu, Ấn Độ, Úc... và hầu hết các nước ASEAN. Chưa bao giờ trên trang web của Nhà Trắng lại xuất hiện một kiến nghị rất hay, đề nghị chính phủ Mỹ trừng phạt Trung Quốc vì đã đặt giàn khoan 981 ở thềm lục địa Việt Nam, tính đến cuối tháng 5/2014 đã thu hút hơn 130.000 chữ ký. Theo quy định của Mỹ, một kiến nghị đạt được 100.000 chữ ký thì trong vòng 30 ngày sẽ được chính quyền Tổng thống Obama xem xét.

Thứ ba: Kể từ sau sự kiện 1/5/2014, trên các báo chữ, báo mạng, tạp chí liên tiếp xuất hiện các bài biết phê phán Trung Quốc xâm phạm vùng biển Việt Nam, kiến nghị Chính phủ kiện Trung Quốc ra Tòa án quốc tế.

Giàn khoan Hải Dương 981 cũng đã xuất hiện trong đề thi môn Ngữ văn và môn Sử năm nay. Cá nhân tôi rất ủng hộ ý kiến của Bộ trưởng Tư pháp Hà Hùng Cường phát biểu tại Quốc hội ngày 28/5/2014 về việc cần sớm có Luật biểu tình: "có những cuộc biểu tình không phù hợp, nhưng cũng có nhiều cuộc biểu tình phù hợp. Việc sớm đưa vào chương trình xây dựng Luật Biểu tình để có hành lang pháp lý, biểu thị ý kiến của người dân là điều hoàn toàn phù hợp".

Thứ tư: "Trong họa có phúc", đây là cơ hội để ta điều chỉnh chính sách ứng phó, giảm lệ thuộc vàoTrung Quốc trước mắt và tương lai lâu dài.

Những ngày qua, phát biểu của lãnh đạo các cấp, các ngành tại các diễn đàn trong và ngoài nước đã cho thấy, cùng với việc sẵn sàng khởi kiện Trung Quốc ra Tòa án quốc tế và chuẩn bị các phương án bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, chúng ta đã tính đến các giải pháp kinh tế giảm lệ thuộc vào thị trường Trung Quốc. 

Những ngày qua, mỗi khi các tàu thực thi pháp luật của Việt Nam tiến đến giàn khoan Hải Dương 981 mà TQ đặt trái phép trên vùng biển Việt Nam, lập tức có một "phi đội" tàu TQ bao vây để cản trở, đâm, dùng vòi rồng xịt. Ảnh: Tư liệu Cảnh sát biển


Nếu ngừng hợp tác kinh tế, TQ sẽ thiệt hơn

Theo ông, các diễn biến trên biển sẽ tác động như thế nào đến hoạt động kinh tế, giao thương giữa hai nước?
- Trong kỳ họp lần này, các ĐBQH đã bàn thảo về các phương án ứng phó trong tình huống Trung Quốc đóng cửa khẩu biên giới, giảm và ngừng các hoạt động hợp tác kinh tế, đầu tư tại Việt Nam. Tôi xin lưu ý:

Thứ nhất, trong buôn bán với Trung Quốc, 2/3 số lượng hàng hóa buôn bán là tiểu ngạch (mậu dịch biên giới), chỉ có 1/3 là chính ngạch. Xuất khẩu của Việt Nam sang Trung Quốc chỉ chiếm 30 % tổng xuất khẩu với thế giới, trong đó chủ yếu là hàng nông sản, nhưng cũng chỉ chiếm khoảng 10% hàng nông sản xuất khẩu của Việt Nam với thế giới. Những mặt hàng Việt Nam nhập khẩu từ Trung Quốc như thiết bị máy móc, nguyên vật liệu may mặc... thì đều có thể nhập từ các thị trường khác. Đồng thời, trong quan hệ thương mại, Trung Quốc luôn xuất siêu sang Việt Nam, vì vậy nếu Trung Quốc đóng cửa khẩu biên giới, bên thiệt hại hơn không phải là bên nhập siêu.

Thứ hai, đầu tư FDI của Trung Quốc tại Việt Nam chỉ chiếm 3% tổng số vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài tại Việt Nam. Nếu như thiếu 3% FDI đó, kinh tế Việt Nam vẫn phát triển bình thường.

Theo số liệu của Bộ Công thương tháng 4/2014, trong 10 dự án lớn của nhà thầu Trung Quốc tại Việt Nam thì tiến độ nhiều dự án chậm trễ, đội vốn, gây tranh cãi. Nếu như Trung Quốc ngừng các dự án thầu này, lẽ đương nhiên hai bên đều thiệt hại, nhưng họ sẽ chịu thiệt hại trước tiên.

Tôi cũng xin cung cấp thêm một thông tin, Trung Quốc là nước đầu tư trực tiếp lớn nhất tại Myanmar với 14,2 tỉ USD, chiếm 30,6% tổng số vốn FDI nước ngoài tại Myanmar, nhưng cuối năm 2011 để bảo vệ môi trường và an ninh quốc gia, chính phủ Myanmar đã tuyên bố hủy bỏ dự án đập thủy điện khổng lồ Myitsone trên sông Irrawaddy thuộc Bang Kachin giáp biên giới Trung Quốc trị giá 3,6 tỉ USD do Trung Quốc là chủ đầu tư và đã làm xong 1/3 công trình. Phía Trung Quốc tuy phản ứng gay gắt trước quyết định này của chính phủ Myanmar, nhưng vẫn phải "ngậm bồ hòn làm ngọt" tiếp tục đầu tư vào các dự án khác.

Đã đến lúc cân nhắc kiện TQ

Theo ông, Việt Nam có nên kiện Trung Quốc ra tòa án quốc tế không?

- Các bạn đã biết, suốt tháng qua nhiều phát biểu của lãnh đạo cấp cao, các Bộ, Ngành nhất là các ĐBQH đều phê phán gay gắt hành động xâm phạm của Trung Quốc với nước ta, đồng thời đề xuất phương án kiện Trung Quốc ra Tòa án quốc tế như Philippines đã làm.

Tôi cho rằng, đã đến lúc chúng ta kiện Trung Quốc ra Tòa án quốc tế, dùng pháp lý quốc tế khẳng định và bảo vệ chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam.

Ngoài ra, trong các Bộ Luật về biển được quốc tế sử dụng, Bộ Luật cổ La Mã quy định, trong tranh chấp chủ quyền biển đảo giữa các bên liên quan, nếu trong vòng 50 năm một trong hai bên tranh chấp không lên tiếng khởi kiện bên kia, thì lẽ đương nhiên chủ quyền sẽ thuộc về bên kia. Trung Quốc đã chiếm đóng quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam 40 năm rồi. Chúng ta càng để lâu không kiện Trung Quốc sẽ càng bất lợi.

Tin tức cho hay, ngày 4/6/2014, Tòa án trọng tài quốc tế ở The Hague, Hà Lan thông báo sẽ lấy ngày 15/12 là ngày Trung Quốc nộp bản phản biện đáp lại văn bản dài gần 4.000 trang của Philippines kiện Trung Quốc hồi tháng 3/2013. Cùng ngày, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc đã ngang ngược khẳng định: "Lập trường của Trung Quốc không có gì thay đổi, Bắc Kinh không chấp nhận và không tham gia trong tố tụng trọng tài có liên quan tới Philippines".

Việc Trung Quốc không dám tranh luận trước tòa chỉ càng làm cho Trung Quốc bị cô lập trên quốc tế, đồng thời khiến vụ kiện của Philippines nhanh chóng được Tòa án quốc tế hoàn tất và sẽ sớm đưa ra phán quyết cuối cùng. Nếu phán quyết này có lợi cho phía Philippines, đây sẽ là một đòn ngoại giao giáng mạnh vào Trung Quốc, và sẽ là một chiến thắng vang dội cho Philippines về pháp lý.

Về đề nghị của Trung Quốc "gác tranh chấp, cùng khai thác" ở Biển Đông, thay cho trả lời, tôi xin cung cấp thông tin cho các bạn rõ hơn tình hình.

Từ năm 1992, Trung Quốc công bố "phương châm 16 chữ" của họ về khai thác chung với các nước láng giềng là "chủ quyền thuộc ngã, các trí tranh nghị, cộng đồng khai phát, lợi ích phân hưởng"(chủ quyền thuộc tôi, gác lại tranh cãi, cùng nhau khai thác, chia sẻ lợi ích). Sau đó họ viết ngắn lại là "các trí tranh nghị, cộng đồng khai phát" nhưng dưới tiền đề "chủ quyền thuộc ngã".

Nực cười thay, đã là "chủ quyền thuộc ngã" thì còn khai thác chung làm gì nữa? Trung Quốc đã đem công thức này mời chào Việt Nam và các nước Đông Nam Á có tranh chấp biển đảo với Trung Quốc, nhưng cho tới nay chưa có quốc gia nào dám nhận lời "cùng khai thác" tài nguyên biển với Trung Quốc ở vùng tranh chấp mà phải chấp nhập tiền đề "chủ quyền thuộc ngã"? Thực chất là Trung Quốc muốn "gác tranh chấp, cùng khai thác" tại vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa và lãnh hải của các nước Đông Nam Á mà theo cách nghĩ của Trung Quốc đó là vùng tranh chấp vì nằm trong "đường lưỡi bò" do họ tự vẽ ra.

Ngoài ra, thực tiễn trên thế giới cũng cho thấy, các dự án "khai thác chung" tài nguyên biển giữa một số quốc gia đã bộc lộ những hệ quả đáng tiếc, thua thiệt cả về chủ quyền cả về kinh tế cho những quốc gia nhỏ bé, ít vốn hơn bởi lẽ "thỏa thuận tạm thời" sẽ thành "thỏa thuận vĩnh viễn" và "lợi thế" bao giờ cũng thuộc về kẻ mạnh.

Ông đánh giá thế nào về quan hệ Việt Nam - Trung Quốc sau sự kiện này?


Tôi cho rằng sau sự kiện 1/5/2014 lần này, dù muốn hay không quan hệ giữa Việt Nam với Trung Quốc tất yếu đã chuyển sang một giai đoạn mới khác hẳn 23 năm trước kể từ khi hai nước bình thường hóa quan hệ.


Phát biểu của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng ngày 22/5/2014 tại Philippines đã làm nức lòng đồng bào cả nước: "Việt Nam kiên quyết bảo vệ chủ quyền và lợi ích chính đáng của mình bởi vì chủ quyền lãnh thổ, chủ quyền biển đảo là thiêng liêng. Việt Nam luôn mong muốn có hòa bình, hữu nghị nhưng phải trên cơ sở bảo đảm độc lập, tự chủ, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ".


Xin hỏi ông câu cuối cùng, nếu Trung Quốc vẫn tiếp tục lấn tới xâm phạm vùng biển Việt Nam, cố tình gây hấn. Tình hình khi đó sẽ ra sao?


Các lãnh đạọ các cấp Việt Nam đã nói rõ, Việt Nam yêu cầu Trung Quốc phải rút giàn khoan Hải Dương 981 ra khỏi vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam, giải quyết mọi vấn đề tồn tại giữa hai nước bằng biện pháp hòa bình.

Xin cảm ơn ông!



Hoàng Hường(thực hiện)
Tuần VietNamNet

Bắc Kinh đưa đảo có tranh chấp ở Biển Đông vào hệ thống quản lý đất đai

Chính quyền Bắc Kinh tiến xa thêm một bước trong việc đơn phương khẳng định chủ quyền đối với các vùng lãnh thổ đang có tranh chấp. Theo báo chí Trung Quốc, cơ quan đăng ký quyền sở hữu đất đai mà Bắc Kinh thành lập hồi đầu năm 2014, từ nay, sẽ phụ trách cả các vùng biển và đảo đang có tranh chấp tại Biển Đông.


Đảo Phú Lâm (Trung Quốc gọi là Vĩnh Hưng) thuộc quần đảo Hoàng Sa, nơi Trung Quốc đặt trụ sở thành phố Tam Sa. Ảnh chụp từ vệ tinh. Ảnh : hoangsa.org

Theo báo « Economic Observer », có trụ sở tại Bắc Kinh, trích dẫn nguồn tin từ cơ quan đăng ký quyền sở hữu bất động sản, trực thuộc Bộ Đất đai và Tài nguyên Trung Quốc, tất cả các vùng lãnh thổ mà Bắc Kinh coi là của Trung Quốc, sẽ được đưa vào hệ thống quản lý, đăng ký quyền sở hữu ; quyền sở hữu bất động sản của các doanh nghiệp, và của người dân Trung Quốc sống trên biển và các đảo được pháp luật bảo vệ.

Đặc biệt là theo quy định mới về việc đăng ký quyền sở hữu đất đai của Trung Quốc, khái niệm « bất động sản » bao gồm « đất đai, biển, nhà cửa và các công trình xây dựng, kết cấu khác tại đó, rừng, cây và những vật cố định khác ».

Những ai đăng ký quyền sở hữu bất động sản trên biển lần đầu tiên, thì phải nộp bản đồ phân định ranh giới trên biển, tài liệu chấp thuận dự án, cũng như các hợp đồng liên quan, giấy phép và các xác nhận khác.

Nguồn tin trên cũng khẳng định là Tam Sa, một thành phố mà Trung Quốc mới thành lập năm 2012, thuộc tỉnh Hải Nam, nằm trong hệ thống quản lý đăng ký quyền sở đất đai. Theo phân cấp của Bắc Kinh, Tam Sa quản lý nhiều quần đảo và bãi đá ở Biển Đông, trong đó có quần đảo Hoàng Sa (mà Trung Quốc gọi là Tây Sa), Trường Sa (tức Nam Sa theo Bắc Kinh) và quần đảo Macclesfield (Trung Quốc gọi là Trung Sa).

Quyết định của Trung Quốc đưa các vùng biển và quần đảo đang có tranh chấp ở Biển Đông vào hệ thống quản lý đăng ký quyền sở hữu bất động sản càng làm gia tăng mối lo ngại trước thái độ hung hăng và quyết đoán của Bắc Kinh, nhằm thực hiện chiến lược bành trướng lãnh thổ.

Đức Tâm/ RFI

Hội đàm Dương Khiết Trì - Phạm Bình Minh không đạt tiến bộ nào

Trong cuộc hội đàm đầu tiên giữa hai nước kể từ khi Bắc Kinh đặt giàn khoan Hải Dương 981 trên Biển Đông, Uỷ viên Quốc vụ Trung Quốc Dương Khiết Trì đã yêu cầu Việt Nam chấm dứt « thổi phồng » vụ giàn khoan, khẳng định Hoàng Sa là thuộc chủ quyền của Trung Quốc.


Ngoại trưởng Việt Nam Phạm Bình Minh tiếp Uỷ viên Quốc vụ Trung Quốc Dương Khiết Trì, trụ sở chính phủ, Hà Nội, 18/06/2014. Reuters

Theo hãng tin AFP, trước khi tiếp ông Dương Khiết Trì hôm nay 18/06/2014 tại Hà Nội, Phó thủ tướng kiêm bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh đã chào mừng chuyến viếng thăm của « đồng chí Trung Quốc » ở Việt Nam. Cũng theo AFP, bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam đã tuyên bố rằng : « Mong muốn của hai nước là giải quyết vấn đề ở Biển Đông ». Về phần ông Dương Khiết Trì, cũng nguyên là Ngoại trưởng Trung Quốc, thì tuyên bố ông đến đây để thảo luận « thẳng thắng » với « đồng chí » Phạm Bình Minh về vấn đề biển Hoa Nam ( Biển Đông ).

Trong cuộc hội đàm với bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh, ông Dương Khiết Trì nhìn nhận rằng quan hệ hai nước đang gặp khó khăn và ông đến Việt Nam lần này theo lệnh của Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc để có các cuộc thảo luận « thẳng thắng, sâu rộng » với « đồng chí » Phạm Bình Minh.

Nhưng trong cuộc họp báo hôm nay tại Bắc Kinh, phát ngôn viên bộ Ngoại giao Trung Quốc Hoa Xuân Oánh cho biết là khi thảo luận với bộ trưởng Phạm Bình Minh, ông Dương Khiết Trì đã nói rằng, đối với vấn đề trên biển hiện nay, hai bên cần phải « xuất phát từ đại cục gìn giữ quan hệ giữa hai Đảng và hai nước, tránh mở rộng, làm phức tạp và quốc tế hoá vấn đề liên quan ». Uỷ viên Quốc vụ Trung Quốc yêu cầu Việt Nam cần phải đình chỉ « quấy nhiễu » hoạt động của giàn khoan, ngưng « thổi phồng » bất đồng, gây ra tranh chấp mới. Uỷ viên Quốc vụ Trung Quốc khẳng định việc Trung Quốc khoan dầu ở vùng này là « hoàn toàn hợp pháp » và nói thêm rằng quần đảo Hoàng Sa là thuộc chủ quyền Trung Quốc. Ông Dương KHiết Trì còn yêu cầu Hà Nội « khắc phục hậu quả » của các vụ bạo động nhắm vào các doanh nghiệp Trung Quốc giữa tháng 5 vừa qua.


Theo hãng tin AP, một quan chức Việt Nam, xin được miễn nêu tên, hôm nay cho rằng cuộc hội đàm giữa ông Dương Khiết Trì và ông Phạm Bình Minh đã không đạt được tiến bộ nào để giải tỏa bế tắc của cuộc đối đầu ngày càng gay gắt giữa hai nước trên Biển Đông. Theo lời quan chức này, hai bên vẫn giữ nguyên lập trường đối lập nhau.

Cho tới nay, Hà Nội vẫn cho rằng việc đặt giàn khoan Hải Dương 981 là trái phép, vì khu vực này nằm trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam và đã liên tục yêu cầu Bắc Kinh rút giàn khoan này đi. Vào tháng trước, thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã tuyên bố là Việt Nam đang xem xét khả năng kiện Trung Quốc ra trước tòa án quốc tế về vụ này.

Trước khi rời Hà Nội hôm nay, Uỷ viên Quốc vụ Dương Khiết Trì sẽ gặp thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và tổng bí thư Đảng Nguyễn Phú Trọng.

Nguyên đại sứ Việt Nam tại Trung Quốc Nguyễn Trọng Vĩnh, được hãng tin AFP trích dẫn, hôm nay cho biết ông rất ngạc nhiên về chuyến viếng thăm của ông Dương Khiết Trì, bởi vì kể từ khi có vụ giàn khoan, Hà Nội đã nhiều lần muốn đối thoại cấp cao với Bắc Kinh, nhưng đều bị từ chối. Tuy vậy, ông Nguyễn Trọng Vĩnh cho rằng Trung Quốc không hề có thực tâm muốn giải quyết tranh chấp Biển Đông, mà có lẽ chỉ nhằm tô điểm lại hình ảnh của nước này trước quốc tế.

AFP cũng trích lời giáo sư Carl Thayer, chuyên gia về Việt Nam, nhận định rằng, Trung Quốc, mà hiện là đối tác thương mại hàng đầu của Việt Nam, đang ở thế thượng phong và chắc chắc rằng ông Dương Khiết Trì trong chuyến đi này sẽ cảnh cáo Việt Nam về những hậu quả kinh tế nếu quan hệ Việt – Trung xấu đi.

Thanh Phương/ RFI

Thứ Ba, 17 tháng 6, 2014

Ý nghĩa của việc giải quyết căng thẳng trên Biển Đông đối với kinh tế toàn cầu

Chuyên trang phân tích tài chính Qfinance vừa đăng tải bài viết “What does pulling and shoving in a South China sea meant to a tellurian economy?” của tác giả Anthony Harrington về sự liên quan giữa những căng thẳng trên biển Đông đối với nền kinh tế toàn cầu. Ban biên tập xin giới thiệu đến quý độc giả bài viết này.

Trong cuốn sách “Asia’s Cauldron: The South China Sea and a finish of a fast Pacific” (Chảo lửa châu Á: biển Đông và sự kết thúc một Thái Bình Dương ổn định) nhà phân tích chính trị của công ty tình báo tư nhân Stratfor, ông Robert Kaplan đưa ra quan điểm về lý do tại sao Trung Quốc và các nước láng giềng ở biển Đông lại cùng tuyên bố chủ quyền ở một vùng biển. Cuốn sách đã hình thành nên chủ đề của một cuộc nói chuyện gần đây của Kaplan tại Viện Nghiên cứu chính sách đối ngoại (FPRI).

Điểm khởi đầu của Kaplan, như trong tất cả các phân tích của mình, là những hạn chế được áp đặt bởi vị trí địa lý vào sự lựa chọn của các nhà lãnh đạo và các quốc gia.

Nếu bạn bắt đầu bằng các thông tin về địa lý, bạn ngay lập tức sẽ có hai câu chuyện mâu thuẫn về Trung Quốc, theo Kaplan.


Đầu tiên là Trung Quốc lớn hơn rất nhiều so với những gì thể hiện trên bản đồ. Bạn có vùng Viễn Đông của Nga với dân số chỉ khoảng 7 triệu người sống trong một khu vực rộng lớn giàu khoáng sản như gỗ, vàng, uranium, tiếp giáp với khu vực Mãn Châu của Trung Quốc và 100 triệu người ở miền tây Trung Quốc, những người có thể đổ qua biên giới Trung – Nga để chiếm lại vùng đất đã từng thuộc về Trung Quốc cho đến giữa thế kỷ XIX.

Một thực tế mâu thuẫn khác là Trung Quốc thực sự nhỏ hơn những gì đang thể hiện trên bản đồ địa lý. Kaplan chỉ ra rằng dân tộc Hán, những người đang nắm giữ các vị trí quyền lực thống trị trong nhà nước Trung Quốc, đang sống ở khu vực trung tâm và bờ biển phía đông đất nước.

Người Mông Cổ ghét họ, người Hồi giáo Turtuk ghét họ, và sống ở phía tây, nơi bắt nguồn của các con sông lớn của Trung Quốc cùng với hầu hết tài nguyên khoáng sản – tất cả đều ép người Hán vào một không gian nhỏ hẹp hơn nhiều so với bản đồ của Trung Quốc.

Kaplan đã chỉ ra rằng nếu Trung Quốc thực hiện tự do dân chủ, chắc chắc đất nước Trung Quốc sẽ gặp những bất ổn về bạo lực sắc tộc và gần như sẽ bị phân liệt thành nhiều quốc gia.

Bên cạnh đó, các lãnh đạo Trung Quốc cũng phải đối phó với những vấn đề của nền kinh tế. Vậy giới lãnh đạo Trung Quốc đã làm gì khi nhận ra điều này? Họ đã kích động chủ nghĩa dân tộc để người dân có một thứ gì đó để la hét.

Vậy họ sẽ hướng đến đâu? Rõ ràng là về mặt địa lý thì địa điểm hướng tới chính là Biển Đông và Biển Hoa Đông. Kaplan chỉ ra rằng đây là một khu vực tự nhiên với nhiều nước tiếp giáp: Việt Nam ở phía tây, Philippines ở phía đông, Trung Quốc ở phía bắc và Malaysia ở phía tây nam.

Trung Quốc tuyên bố 80% biển Đông thuộc về mình, nhưng Việt Nam và những nước khác đã dựa vào Luật biển quốc tế để khẳng định rằng vùng lãnh hải của mỗi nước phụ thuộc vào đường bờ biển của mình.

Việt Nam khẳng định một giới hạn lãnh hải 200 hải lý ở Biển Đông. Philippines cũng đưa ra một tuyên bố tương tự, và như vậy, đã có một sự mâu thuẫn trong tuyên bố chủ quyền.

Lý do Trung Quốc đang đưa một lượng lớn sức mạnh hải quân vào Biển Đông, theo Kaplan, là họ đang học theo một bài học cơ bản từ lịch sử Mỹ. Bài học này là khả năng triển khai sức mạnh hải quân ra vùng biển Caribbean và trở thành thế lực thống trị ở đó, dẫn đến việc Mỹ trở thành một siêu cường quốc.

Kaplan lập luận: “Tây bán cầu được chia thành hai khu vực phía bắc và nam của khu rừng nhiệt đới Amazon. Khi Mỹ giành quyền kiểm soát vùng Vịnh Mexico, họ đã đạt được sự thống trị ở tây bán cầu”.

Những gì Trung Quốc muốn làm là ép Mỹ và những nước khác lui ra khỏi biển Đông để họ có thể giành quyền lực thống trị ở khu vực này. Điều này sẽ đồng thời cung cấp cho Trung Quốc khả năng kiểm soát Ấn Độ Dương, và từ đó sẽ cho phép kiểm soát thương mại toàn cầu.

Nguyễn Anh (dịch từ Qfinance)

Anthony Harrington là một doanh nhân và là nhà báo chuyên lĩnh vực năng lượng. Ông thường xuyên viết cho tờ Scotsman, Glassgow Herald, tạp chí Financial Director, tạp chí Pensions Insight…

Việt Nam chưa bao giờ công nhận chủ quyền Hoàng Sa là của Trung Quốc

(Nguồn: VTC14) Việt Nam tiếp tục bác bỏ luận điệu xuyên tạc của Trung Quốc về biển Đông.

Sau khi đá hóa đảo trái phép Trường Sa, Trung Quốc sẽ đòi 200 hải lý

(GDVN) - Có lẽ một động cơ nguy hiểm hơn nữa là sau khi tạo ra các đảo mới, Trung Quốc sẽ (đơn phương) tuyên bố họ có một vùng đặc quyền kinh tế rộng 200 hải lý.


Hoạt động cải tạo đắp nền bất hợp pháp mới nhất Trung Quốc đang tiến hành ngoài đá Gạc Ma nhằm biến thành 1 đảo nhân tạo.

The New York Times ngày 16/6 đưa tin, việc Trung Quốc tiến hành xây dựng (bất hợp pháp) trên một số bãi đá và rặng san hô ở Trường Sa (thuộc chủ quyền Việt Nam) là một trong những nỗ lực mới nhất mở rộng sự hiện diện của họ ở Biển Đông, sau khi tạo ra những đảo nhân tạo chúng sẽ mọc lên những công trình kiên cố làm nơi đồn trú và lắp đặt các thiết bị giám sát, bao gồm radar.

Hoạt động xây dựng đảo nhân tạo mà phía Trung Quốc đang triển khai là hồi còi báo động Việt Nam, Philippines và các bên yêu sách chủ quyền khác ở Trường Sa. Từ tháng 4 Philippines đã phản đối Trung Quốc cải tạo trái phép 2 bãi đá, tháng này Tổng thống Aquino tiếp tục chỉ trích các dấu hiệu di chuyển khác của Trung Quốc trên 2 bãi đá nữa.

Hành động của Trung Quốc cũng khiến các quan chức cấp cao của Mỹ lo ngại. Bộ trưởng Quốc phòng Chuck Hagel đã nhắc đến động thái thay đổi hiện trạng trên Biển Đông từ phía Trung Quốc tại Đối thoại Shangri-la vừa qua.

Một số nhà phân tích cho rằng quân đội Trung Quốc đang nhắm tới 1 điểm cắm chân trong quần đảo Trường Sa làm điểm tựa chiến lược dài hạn triển khai sức mạnh ở Tây Thái Bình Dương.

Có lẽ một động cơ nguy hiểm hơn nữa là sau khi tạo ra các đảo mới, Trung Quốc sẽ (đơn phương) tuyên bố họ có một vùng đặc quyền kinh tế rộng 200 hải lý đối với mỗi "đảo" này bằng cách (cố tình giải thích, áp dụng sai) viện dẫn Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển 1982 (UNCLOS). Philippines đã lập luận tại tòa án quốc tế rằng, Trung Quốc chỉ chiếm đóng (trái phép) các bãi đá và rặng san hô, không thể đủ tiêu chuẩn tuyên bố 1 vùng đặc quyền kinh tế.

"Bằng cách tạo ra sự xuất hiện của một hòn đảo, Trung Quốc có thể đang tìm cách tăng cường giá trị cho tuyên bố của họ", Taylor Fravel, một nhà khoa học chính trị Viện Công nghệ Massachusetts cho biết.

Bắc Kinh đã (ngang nhiên, thách thức) công khai thừa nhận hoạt động này "vì nó là lãnh thổ Trung Quốc"?! Cánh quan chức nước này lý sự rằng Việt Nam và Philippines đã xây dựng các cấu trúc ở quần đảo Trường Sa nhiều hơn phía Trung Quốc nên họ có quyền tự do theo đuổi các dự án của mình?!

The New York Times cho biết, các nhà phân tích đã lưu ý rằng những bên còn lại trên Biển Đông đã không xây dựng đảo, các cấu trúc họ xây dựng ở Trường Sa đều diễn ra trước năm 2002 khi Trung Quốc và ASEAN ký kết Tuyên bố về ứng xử của các bên trên Biển Đông DOC. Trong đó có điều khoản quy định các bên yêu sách ở Biển Đông cần kiềm chế không tiến hành các hoạt động leo thang căng thẳng, không làm thay đổi hiện trạng khu vực này.


Lính Trung Quốc đồn trú bất hợp pháp trên đá Chữ Thập sau khi xâm lược của Việt Nam và xây dựng công sự nhà nổi trái phép từ năm 1988. Nhiều khả năng Trung Quốc âm mưu biến Chữ Thập thành 1 căn cứ quân sự mạnh ở Trường Sa để tìm cách thực hiện tham vọng lưỡi bò.

Trung Quốc đã thay đổi hiện trạng và nó chỉ có thể làm tăng căng thẳng, giáo sư Carl Thayer từ Úc nhận xét. Những động thái Trung Quốc đang làm trên Biển Đông không phải hoạt động đơn lẻ mà là một kế hoạch hoàn chỉnh nhằm khẳng định yêu sách chủ quyền (vô lý) của họ, nhưng hiện chưa có phản ứng đồng thời đủ mạnh.

Kể từ tháng Giêng năm nay, Trung Quốc đã bắt đầu xây dựng 3 hoặc 4 đảo nhân tạo ở Trường Sa với diện tích ước chừng 20 - 40 mẫu Anh, trong đó có ít nhất 1 đảo nhân tạo được Trung Quốc dành riêng cho mục đích quân sự, các đảo nhân tạo còn lại sẽ sử dụng làm nơi neo đậu, cung cấp hậu cần tàu thuyền, một quan chức phương Tây giấu tên nói với The New York Times.

So với vụ Trung Quốc hạ đặt trái phép giàn khoan 981 trong vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa của Việt Nam thì vụ đảo hóa các bãi đá ở Trường Sa (sau khi Trung Quốc xâm lược, chiếm đóng trái phép từ năm 1988 đến nay) nguy hiểm hơn nhiều. Giàn khoan họ sẽ rút, nhưng đảo nhân tạo thì sẽ còn đó, quan chức này bình luận.

Và đá Gạc Ma (mà Trung Quốc xâm lược của Việt Nam năm 1988 cùng với Chữ Thập, Gaven, Su Bi, Tư Nghĩa, Châu Viên) rồi sẽ không còn là đá, mà sẽ trở thành đảo, quan chức này lưu ý.

Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam Lê Hải Bình hôm qua cho biết Việt Nam đã chính thức phản đối các hoạt động bất hợp pháp ngoài đá Gạc Ma và các bãi đá khác ở quần đảo Trường Sa của Việt Nam, yêu cầu Trung Quốc dừng ngay lập tức các hoạt động bất hợp pháp và rút tàu thuyền khỏi khu vực này.

Thứ Hai, 16 tháng 6, 2014

Video: Cường quốc... trơ trẽn cấp trung ương

Hôm 12/6, Bộ quốc phòng Trung Quốc đã cho phát hành một đoạn video mà nội dung được họ diễn giải là hai chiếc F-15 của Nhật Bản đã bay sát một chiếc Tu-154 của Trung Quốc ở khoảng cách chỉ có 30 mét, “ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự an toàn của chuyến bay”.

Thông tin trong video khẳng định vụ việc xảy ra tại nơi mà vùng nhận dạng phòng không của hai nước chồng lấn nhau ở biển Hoa Đông.

Theo Washington Post, Chánh văn phòng Nội Nhật Bản Yoshihide Suga nói hôm thứ Sáu 13/6 rằng máy bay Nhật đã tiếp cận một chiếc máy bay Su-27 của Trung Quốc và cho biết Tokyo đã phản đối việc hai chiến đấu cơ Su-27 của không quân Trung Quốc bay “sát một cách bất thường” hai máy bay của Nhật bên trên biển Hoa Đông đã tạo ra nguy hiểm cho máy bay của Nhật Bản khi bay gần chúng. Ông Suga cho biết, chiếc máy bay trong đoạn băng ghi hình mà Trung Quốc công bố không phải là máy bay của Nhật Bản. "Trung Quốc chỉ trích là không thích hợp", ông Suga nói thêm.

Trong một bản tin, The Japan Times cho biết vụ trạm trán trên diễn ra giữa các máy bay trinh sát Nhật Bản (máy bay trắc định điện tử YS-11EB và máy bay thu thập hình ảnh OP-3C của lực lượng Phòng vệ trên không Nhật Bản) và hai chiến đấu cơ Su-27 của Trung Quốc.

Đáp lại, phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Trung Quốc Hoa Xuân Oánh nói với các phóng viên, "Trung Quốc mạnh mẽ phản đối hành động phớt lờ sự kiện của Nhật Bản, đổ lỗi cho nạn nhân, vu khống tích cực và thổi phồng cái gọi là mối đe dọa Trung Quốc."

Về đoạn video nói trên (được nhúng dưới đây), một thành viên trên YouTube cho biết đó là một tác phẩm điện ảnh nói về việc các máy bay của Lực lượng không quân tự vệ Nhật Bản xuất kích chặn đuổi máy bay Trung Quốc xâm phạm không phận Nhật.


Chúng ta từng nghe nói đến Trung Quốc như là cường quốc phun vòi rồng, cường quốc ném chai lọ,... Nay lại có cường quốc trơ trẽn (nói dóc không biết ngượng)...cấp trung ương !

Cựu Tư lệnh Nhật Bản: Việt Nam không dễ bị nước lớn chèn ép

Việt Nam đã trở thành một đất nước được ngưỡng mộ khi một bộ phận người Nhật đồng cảm, một số khác xem Việt Nam như một mô hình đối phó với Trung Quốc.


Cựu Tư lệnh Không quân Nhật Bản Toshio Tamogami

Japan Times ngày 14/6 phân tích, mặc dù quan hệ thương mại, du lịch Nhật - Việt đã phát triển nhanh chóng trong những năm gần đây, nhưng khi so với các nước ASEAN khác như Malaysia, Singapore hay Thái Lan thì Việt Nam không mấy nổi bật trên các phương tiện truyền thông Nhật Bản.

Nhưng đột nhiên Việt Nam đã trở thành một đất nước được ngưỡng mộ khi một bộ phận người Nhật đồng cảm, một số khác xem Việt Nam như một mô hình đối phó với Trung Quốc về mặt quân sự. Lý do rất đơn giản, cả Nhật Bản và Việt Nam đang phải đối mặt gay gắt với Trung Quốc trên Hoa Đông và Biển Đông.

Tháng Giêng năm 1974, Trung Quốc đã cất quân xâm lược nhóm đảo phía Tây quần đảo Hoàng Sa, kết thúc việc thôn tính toàn bộ quần đảo này (thuộc chủ quyền của Việt Nam).

Các chính trị gia và các nhà phân tích quân sự Nhật Bản đang theo dõi chặt chẽ tình hình trên biển có dấu hiệu cho thấy Bắc Kinh sẵn sàng sử dụng vũ lực để khẳng định yêu sách chủ quyền lãnh thổ (phi lý, bất hợp pháp) của họ.

Cựu Tư lệnh Không quân Nhật Bản Toshio Tamogami hôm 5/6 bình luận, tình hình (Biển Đông) không phải vấn đề của riêng ai, vì điều tương tự cũng có thể nổ ra trên quần đảo Senkaku. Tướng Tamogami đánh giá, Việt Nam không phải một quốc gia dễ dàng để cho nước lớn chèn ép.

Nhà báo quân sự Mitsuhiro Sera nhắc lại việc ngày 30/5 năm ngoái, một tàu khu trục hải quân Trung Quốc đã mở radar tên lửa ngắm bắn một tàu hộ vệ của Nhật Bản trên biển Hoa Đông và cho rằng, nếu trong trường hợp tương tự thì người Việt Nam chắc chắn sẽ đáp trả vì hành động như vậy là một tuyên bố chiến tranh.

"Người dân và Quân đội Nhân dân Việt Nam có tinh thần đồng đội, có lẽ bạn có thể gọi nó chính là sức mạnh", nhà quan sát Toru Kitsu nhận xét, ông đánh giá cao kinh nghiệm quân sự của những nhà lãnh đạo Việt Nam đã từng trải qua cuộc chiến tranh.

Người Việt tự hào về khả năng chiến đấu và sức kiên trì của mình, ngay cả khi họ ở thế bất lợi trong tương quan so sánh lực lượng - vũ khí trang bị với đối thủ, dù hải quân Trung Quốc có 217 ngàn quân với 891 tàu, trong khi Hải quân Nhân dân Việt Nam có 16 ngàn quân và 139 tàu.

Mitsuhiro Sera cho rằng khu vực quần đảo Hoàng Sa sẽ là "đất dụng võ" rất tốt cho các tàu ngầm Kilo Việt Nam đã mua từ Nga.

Cả Mitsuhiro Sera và Toru Kitsu đều chung nhận định, Việt Nam là quốc gia có sức mạnh quân sự đang tập trung vào lục quân, nhưng có thể gia tăng lợi thế trên biển nhờ lực lượng sĩ quan hải quân được đào tạo tại Nhật Bản hàng năm ở Yokosuka tỉnh Kanagawa.

Trong Chiến tranh Việt Nam giai đoạn 1954 - 1975 Mỹ đã phải chịu áp lực rất lớn từ lực lượng du kích Việt Nam chiến đấu trong những khu rừng. Mỹ sử dụng bom na-pan và hóa chất khai quang một vùng rộng lớn để đối phó, nhưng Trung Quốc cần chú ý đến thực tế là họ không có cách nào "lấy nước ra khỏi đại dương" (khi đối phó với Hải quân Việt Nam).

Một nguồn tin từ hội Nghị sĩ hữu nghị Nhật Bản - Việt Nam cho biết, ngay cả khi Nhật Bản ở tình thế không viện trợ quân sự cho Việt Nam thì Tokyo cũng có thể cung cấp các hình thức hỗ trợ khác, chẳn hạn như viện trợ kinh tế.

Seatimes

Singapore: Lập trường của Trung Quốc về Biển Đông “thay đổi quan trọng”

Theo hãng tin Channel News Asia, trong chuyến công du Trung Quốc hôm 13/6/2014, Ngoại trưởng Singapore khẳng định lập trường của Bắc Kinh về Biển Đông đã có một "thay đổi quan trọng".


Theo hãng tin Channel News Asia, trong chuyến công du Trung Quốc hôm 13/6/2014, Ngoại trưởng Singapore khẳng định lập trường của Bắc Kinh về Biển Đông đã có một "thay đổi quan trọng", căn cứ vào nội dung thông cáo Trung Quốc gửi lên Liên Hiệp Quốc ngày 10/6 mới đây, thừa nhận vấn đề Biển Đông với Việt Nam phải được giải quyết theo Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển.

Ngoại trưởng và bộ trưởng Tư pháp Singapore K. Shanmugam có chuyến công du ba ngày tại Trung Quốc (từ ngày 12/06 đến 14/06) nhằm thúc đẩy các hợp tác về pháp lý, khoa học, công nghệ và đô thị.

Vấn đề tại Biển Đông với một số nước Asean, đặc biệt là với Việt Nam, là một trong các chủ đề của cuộc hội đàm giữa lãnh đạo Singapore với các lãnh đạo Trung Quốc.

Theo Channel News Asia, phía Trung Quốc khẳng định địa điểm thăm dò dầu khí do giàn khoan Hải Dương 981 (thuộc thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam) "nằm trong khu vực thuộc chủ quyền của Trung Quốc".

Tuy nhiên, Trung Quốc cũng thừa nhận rằng Trung Quốc "chưa tiến hành xác định giới hạn của khu vực đặc quyền kinh tế và vùng thềm lục địa của mỗi bên, (về việc này) cả hai bên được phép đưa ra các yêu sách phù hợp với Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển (UNCLOS)".

Theo RFI, Ngoại trưởng Singapore nhận định thông cáo này là một "thay đổi tích cực" trong lập trường của Trung Quốc, bởi vì một mặt, nó công nhận tầm quan trọng của luật pháp quốc tế và, mặt khác, thừa nhận các vùng biển mà Trung Quốc đòi hỏi chủ quyền nói trên vẫn còn chưa được phân định thuộc về họ.

Ngoại trưởng và bộ trưởng Tư pháp K. Shanmugam tuyên bố Singapore không đưa ra nhận định về những hay, dở cụ thể trong thông cáo nói trên, nhưng việc thừa nhận đòi hỏi chủ quyền phải phù hợp với luật pháp quốc tế trong bản thông cáo gửi Liên hiệp quốc cho thấy một "chuyển biến quan trọng" của Trung Quốc.

Theo ghi nhận của The Diplomat, tạp chí về Châu Á-Thái Bình Dương (trong bài "Trung Quốc ‘‘quốc tế hóa’’ tranh chấp tại Biển Đông", ngày 10/06), việc Trung Quốc đưa tranh chấp chủ quyền tại Biển Đông ra Liên Hiệp Quốc, nói cách khác việc "quốc tế hóa" vấn đề này, cho thấy "nỗi lo ngại gia tăng" của Bắc Kinh trước việc các nước láng giềng Đông Nam Á đang sử dụng con đường pháp lý - hành động được cộng đồng quốc tế ủng hộ - để đối lại đe dọa dùng sức mạnh quân sự của Trung Quốc.

Phát biểu của Phó đại sứ Trung Quốc tại Liên hiệp quốc Wang Min (Vương Minh), ngày 09/06/2014, nhân dịp kỷ niệm 20 năm ngày Công ước Liên hiệp quốc về Luật Biển có hiệu lực, đặt "các thực tế lịch sử", theo cách hiểu của Trung Quốc, lên trước "luật pháp quốc tế", cho thấy lập trường của Trung Quốc về tranh chấp tại Biển Đông vẫn chưa thực sự thay đổi.

Cũng theo RFI, yêu sách "đường lưỡi bò" (hay đường 9 đoạn) trên Biển Đông của Bắc Kinh "hoàn toàn đi ngược lại luật pháp quốc tế".

Việt-Trung đối thoại cấp cao trong bối cảnh căng thẳng ở Biển Đông

Ủy viên Quốc vụ viện Trung Quốc phụ trách đối ngoại, ông Dương Khiết Trì, sẽ sang Việt Nam vào tuần tới trong khuôn khổ đối thoại thường niên về hợp tác song phương. Báo South China Morning Post, số ra ngày hôm nay, 15/06/2014, đã cho biết thông tin này.

Đây sẽ là quan chức Trung Quốc cao cấp nhất tới Việt Nam, vào lúc quan hệ giữa hai nước đang căng thẳng do việc Trung Quốc, kể từ đầu tháng Năm vừa qua, đã đưa giàn khoan dầu vào vùng biển mà Việt Nam khẳng định thuộc vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của mình.

Bình thường ra, những sự kiện này thường được thông tin trước. Tuy nhiên, lần này, Bộ Ngoại giao của cả hai nước đều chưa thấy có thông báo gì. Nguồn tin tại Việt Nam giải thích với South China Morning Post là thời điểm chuyến đi của ông Dương Khiết Trì không phù hợp với tình hình hiện nay; chính phủ Việt Nam và Trung Quốc buộc phải tổ chức đối thoại thường niên theo lịch trình đã định và tránh không gây ra những phản ứng từ phía công luận ở mỗi nước.

Theo tiến sĩ Trần Trường Thủy, thuộc Viện Biển Đông, Học viện Quan hệ quốc tế, ông Dương Khiết Trì tới Hà Nội tham dự vòng gặp gỡ cuối cùng trong khuôn khổ Ủy ban chỉ đạo hợp tác song phương và sẽ có cuộc hội đàm với Phó Thủ tướng kiêm Ngoại trưởng Việt Nam Phạm Bình Minh.

Theo ông Thủy, “đây là cuộc gặp thông thường bàn về hợp tác, nhưng lần này, chủ đề chính sẽ tập trung vào những vấn đề ở Biển Đông”.

Ông Dương Khiết Trì và ông Phạm Bình Minh đã có cuộc điện đàm gay gắt vào ngày 06/05, khi mới xẩy ra cuộc khủng hoảng. Ngoại trưởng Minh đã tố cáo Trung Quốc đưa giàn khoan cũng như điều động các tàu, xâm nhập bất hợp pháp vào vùng biển của Việt Nam, trong khi đó, ông Dương nói rằng các “quấy nhiễu của Việt Nam đối với các hoạt động bình thường của các công ty Trung Quốc đã “vi phạm nghiêm trọng chủ quyền của Trung Quốc”.

Theo các nguồn tin báo chí, Bắc Kinh đã bác bỏ hoặc không đáp lại những đề nghị của Hà Nội muốn có các cuộc đối thoại ở cấp cao hơn hai ông Dương Khiết Trì và Phạm Bình Minh.

Không rõ lần này, ông Dương Khiết Trì có các cuộc gặp với các quan chức cao cấp hơn Ngoại trưởng Phạm Bình Minh hay không.

Ủy ban chỉ đạo hợp tác Việt-Trung được thành lập năm 2006, họp hàng năm để thảo luận về những hồ sơ và các dự án hợp tác chính trong quan hệ giữa hai nước. Năm ngoái, cuộc họp được tổ chức tại Bắc Kinh và ông Dương Khiết Trì là trưởng phái đoàn Trung Quốc, còn đại diện phái đoàn Việt Nam là ông Nguyễn Thiện Nhân.

Tuy nhiên, các căng thẳng trước đây tại Biển Đông đã từng làm gián đoạn đối thoại. Ông Trương Minh Lượng (Zhang Mingliang), chuyên gia về Đông Nam Á, thuộc đại học Kị Nam, Quảng Châu, Quảng Đông (Jinan University – Guangzhou), cho biết, cuộc gặp năm 2007 bị đình hoãn do căng thẳng song phương, sau khi các tàu tuần dương của Trung Quốc bắn cháy một tàu cá Việt Nam và làm một ngư dân thiệt mạng.

Ông Trương cho rằng, hiện nay không phải là thời điểm thuận lợi cho một cuộc gặp cấp cao, nhưng cả hai bên không muốn hủy bỏ chuyến đi này, bởi vì họ có những vấn đề phải giải quyết.

Báo South China Morning Post đã hỏi, nhưng cả Bộ Ngoại giao Trung Quốc và Việt Nam đều không khẳng định chuyến đi của ông Dương Khiết Trì.

Theo tờ báo, nguồn tin từ Việt Nam cho biết Hà Nội có thể sẽ đưa tin về cuộc họp, khi ông Dương Khiết Trì có mặt tại Việt Nam. Dường như Việt Nam phải làm như vậy để tránh gây xôn xao trong công luận, vốn đã bức xúc về bài phát biểu của Bộ trưởng Quốc phòng Việt Nam, tướng Phùng Quang Thanh, tại Đối thoại Shangri-la, khi ông nói rằng “mọi việc đều tốt đẹp” trong quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc.


RFI

Chủ Nhật, 15 tháng 6, 2014

Âm kế của Trung Quốc và đối sách của Việt Nam

Cục diện Biển Đông đang có những biến chuyển khó lường khi Trung Quốc thay đổi chiến lược của mình, trước âm mưu như vậy, đối sách của Việt Nam ra sao? 

Tàu Trung Quốc tấn công tàu chấp pháp của Việt Nam khi ngăn cản giàn khoan Hải Dương 981 xâm phạm vùng biển chủ quyền của Việt Nam 

 
Sự quân tử của Trung Quốc?

Giàn khoan Hải Dương 981 (Haiyang Shiyou 981) là một bước đi mới đầy nguy hiểm của Trung Quốc trong việc khẳng định đường lưỡi bò mưu đồ chiếm 80% Biển Đông. Thay vì những hành động ngăn cản tàu cá khai thác, lập "vùng cấm bơi", Trung Quốc đã bước đầu nhắm tới thứ tài nguyên mà họ khao khát nhất ở vùng biển này - dầu khí.

Trong bối cảnh của thế kỷ 21, khi những vấn đề của quá khứ ngày càng lùi sâu, đã đến lúc chúng ta bình tĩnh nhìn vào quá khứ để nhận định chiến lược cho tương lai. Thế kỷ 21 mở ra với những cuộc chiến tranh của Mỹ vào Afghanistan, Iraq, Libya. Nhưng thực chất, sau mỗi cuộc chiến tranh ấy, cái duy nhất Mỹ lấy đi là chế độ cũ và lập ra một chế độ mới mà ở đó họ có tầm ảnh hưởng.

Nước Mỹ không lấy đi bất kỳ hòn đảo hay vùng đất nào để cắm lá cờ nhiều sao nhiều vạch lên đó và nói rằng đây thuộc chủ quyền của họ. Đấy là một thái cực của thế giới. Còn Trung Quốc, với thế kỷ 21 văn minh, họ đã làm gì?

Phải nói rằng họ là cướp biển, cả nghĩa đen và nghĩa bóng. Hành động hãm hại ngư dân Việt Nam, thậm chí là muốn đoạt mạng ngư dân ta, cướp tài sản của ngư dân ta thì chỉ có thể gọi họ là cướp biển.


Còn với nghĩa rộng hơn, Bắc Kinh cướp đảo của Việt Nam, chiếm đoạt vùng biển chủ quyền của ta, những hòn đảo máu thịt từ thời những đội hùng binh Hoàng Sa thế kỷ 17, 18 để lại. Chỉ có thể gọi hành động này của Trung Quốc là cướp biển.

Họ đi đến đâu, để lại tiếng xấu đến đó, với châu Phi, sau vài năm hợp tác làm ăn, thời gian trăng mật kết thúc và lục địa này ngỡ ngàng nhận ra mình đang bị bóc lột theo mô hình thực dân kiểu mới, để Tổng thống Nam Phi phải cuống cuồng cảnh báo cho cả lục địa và thế giới.

Một quốc gia luôn lấy hình ảnh người quân tử ra để làm chuẩn mực, nhưng không biết họ đang quân tử kiểu gì với những trò mánh lới, ăn cướp, tráo trở với quy mô toàn cầu như vậy?

Viễn giao cận công

Nhưng thời gian gần đây, thay vì những câu chuyện lập lờ đánh lận con đen trên các tuyên bố ngoại giao, những lời lẽ hăm dọa kiểu "nước xa khó cứu lửa gần" mà Trung Quốc dành cho Philippines hay Việt Nam, họ đã dần táo bạo hơn và chuyển hẳn sang "viễn giao cận công" - với nước lớn ở xa thì hòa nhã ứng xử, với nước nhỏ ở gần thì sinh sự, gây sức ép.

Điều này thể hiện một cách rõ ràng khi Trung Quốc chặn đường tất cả các nước lớn muốn can thiệp sâu vào vùng biển này.

Với Mỹ, những cuộc thăm viếng giữa Chủ tịch Tập Cận Bình tới Washington, những sự giao hảo về hợp tác kinh tế, những khoản tiền Bắc Kinh rót vào Mỹ để tham gia trái phiếu chính phủ nước này, chung tay cứu giúp Mỹ giảm tải nợ công đều mang những ý nghĩa ràng buộc nhất định.


                  
Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình thăm Đức và châu Âu để tìm kiếm cơ hội đầu tư mới hồi tháng 4/2014. Tại đây họ cũng không quên nhắc về đường lưỡi bò tại Biển Đông


Dù Mỹ - Trung luôn trong mối quan hệ cơm không lành canh không ngọt, nhưng Trung Quốc không tạo ra cho nước Mỹ bất kỳ cái cớ nào để có thể trực tiếp động thủ.

Với nước Nga, không phải Nga không để ý tới Biển Đông, hải quân Nga dưới thời Tổng thống Putin luôn bày tỏ tham vọng được quay trở lại quân cảng Cam Ranh như thời Liên Xô. Ai cũng biết Cam Ranh là một viên ngọc quý, nhưng giờ nếu Việt Nam có mời Nga vào ngồi "chỗ VIP" đó, Nga chưa chắc đã dám vào.

Bởi lẽ, Nga còn sự ràng buộc chặt chẽ với Trung Quốc từ kinh tế cho đến địa vị quốc tế. Trung Quốc là cường quốc duy nhất ủng hộ Nga hoàn toàn trên mọi vấn đề, gần đây nhất là Syria cho đến Ukraine.

Nhân Dân Tệ của Trung Quốc là chỗ trú an toàn cho doanh nghiệp Nga nếu bị phương Tây trừng phạt. Và cũng là Nhân Dân Tệ đang cứu Nga thoát khỏi sự khủng hoảng kinh tế với hợp đồng năng lượng trị giá 400 tỷ USD. Cũng là Trung Quốc giúp cho ngành công nghiệp vũ khí của Nga sống khỏe.

Lợi ích Trung Quốc mang lại cho Nga nhiều hơn là những quốc gia nhỏ bé của Đông Nam Á mang lại. Nga không giống với Mỹ, địa vị cường quốc số một của Mỹ cho phép họ có quyền tự quyết, nhưng Nga cần phải có sự giúp đỡ và lệ thuộc.

Một động thái rõ ràng của chiến lược "viễn giao" này, khi Ấn Độ vừa thay đổi nhà lãnh đạo, lập tức đại diện đặc biệt của Chủ tịch Tập Cận Bình: Ngoại trưởng Vương Nghị đã đến thăm Ấn Độ với mục đích "thiết lập quan hệ mới". Trung Quốc mong rằng sự đầu tư kinh tế sẽ tạo ra những ràng buộc quan trọng liên quan đến chiến lược biển của Ấn Độ.


                   
                   Ngoại trưởng Vương Nghị thăm Tân Thủ tướng Narendra Modi

Trung Quốc nhanh chóng dùng cái ví đầy tiền của mình mong rằng có thể khỏa lấp những mối nguy từ “nước xa”, để có thể tập trung thổi bùng lên đám lửa ngay trước mắt.

Những gì Trung Quốc hành xử với Việt Nam, Philippines, Nhật Bản không cần phải kể lể quá nhiều. “Viễn giao cận công” là một sách lược nguy hiểm hơn hẳn, bởi Trung Quốc thay vì nói nhiều hơn làm, họ đã chuyển sang phần nói ít làm nhiều, ngấm ngầm mà làm.

Đối sách của Việt Nam

Nhưng Trung Quốc có thành công không với “viễn giao”? Có thể nói rằng về kinh tế, Trung Quốc có thể khiến các nước nhỏ của châu Phi, của Đông Nam Á bị lệ thuộc. Nhưng với các cường quốc tầm cỡ như Nhật Bản, Ấn Độ, Australia, Nhật Bản, Mỹ… lệ thuộc vào Nhân Dân Tệ là một điều nực cười.

Tuy nhiên, tiền của Trung Quốc làm tất cả các bên cùng có lợi. Thứ mà Bắc Kinh trông đợi nhất chỉ là lợi ích khi hợp tác với Trung Quốc sẽ khiến các cường quốc cân nhắc nếu muốn can thiệp vào đống lửa mà Bắc Kinh đang hì hục thổi lên. Hay nói một cách dân gian thì vuốt mặt cũng phải nể mũi.

Tuy nhiên, Trung Quốc không phải là quốc gia duy nhất mang lại quyền lợi. Các cường quốc hợp tác chặt chẽ sẽ mang lại lợi nhuận khổng lồ hơn nhiều lần hợp tác với một mình Trung Quốc. Sự đoàn kết của G7 khi quyết định loại Nga là một minh chứng cho việc các cường quốc hàng đầu thế giới đoàn kết.


                
Tàu đổ bộ Nhật Bản chở theo binh lính Mỹ, Australia, Nhật đến Việt Nam diễn tập hồi tháng 5/2014

Biển Đông vẫn đang trong cơ hội được quốc tế hóa, bởi chiến lược chuyển trục của Mỹ khiến các đồng minh của nước này ở châu Á – Thái Bình Dương như được tiếp thêm sinh khí và hoạt động một cách đầy quyết đoán.

Việt Nam không phải là đồng minh của một quốc gia nào, điều này không phải ta không có bạn, mà ta hoàn toàn có thể có rất nhiều bạn, những người bạn tốt, nếu ta sẵn sàng cởi mở và có sự đồng cảm trong các mối quan hệ.

Trung Quốc có thể viễn giao cận công, ta hoàn toàn có thể dĩ độc trị độc khi cũng viễn giao với những nước ở xa, kéo họ lại phía mình và cùng san sẻ lợi ích dựa trên quyền lợi tối thượng là của Việt Nam.

Nhìn rộng ra thế giới, vì sao nước Mỹ có được sức mạnh ảnh hưởng toàn cầu, bởi họ có rất nhiều bạn bè. Tình bạn chỉ bền khi có một sự sòng phẳng và quyền lợi của tất cả được đảm bảo.

Còn nhớ thời kỳ nhà Nguyễn, Việt Nam đã có cơ hội mở cửa để tìm đến những chân trời khoa học để làm mình mạnh hơn, nhưng chúng ta đã chọn bế quan tỏa cảng, kết quả là trở thành một nước lạc hâu bị đô hộ.

Đã đến lúc Việt Nam cần mở rộng cánh cửa bang giao của mình để có những mối quan hệ chân thành hơn, những sức mạnh lớn lao hơn từ sự tương trợ của quốc tế.


Đỗ Minh Tú - Báo Đất Việt

Hình thành "liên minh chiến lược" "tứ cường" chống Trung Quốc

Hiện nay, giới quan sát cho rằng, yếu tố Trung Quốc đã thúc đẩy hình thành một “liên minh chiến lược” tứ cường Nhật- Úc- Ấn- Mỹ tại khu vực châu Á-Thái Bình Dương. 

   Các máy bay chiến đấu FA-18 Hornet trên tàu sân bay USS George  Washington

Họp an ninh 2+2 Nhật Bản-Úc tại Tokyo ngày 12/6, Ngoại trưởng Úc Julie Bishop tuyên bố ủng hộ Nhật Bản cải tổ Hiến pháp, cho phép Tokyo tăng cường khả năng phòng thủ với các nước đồng minh. Úc nêu rõ, tranh chấp chủ quyền tại biển Đông và biển Hoa Đông phải được giải quyết bằng con đường đối thoại và các bên phải tuân thủ luật pháp quốc tế.

Ngoại trưởng Úc cho rằng, việc Tokyo tăng cường khả năng phòng thủ sẽ có lợi cho cả hai nước và điều đó sẽ giúp Nhật Bản đóng một vai trò quan trọng hơn trong việc bảo đảm an ninh và hòa bình cho khu vực. Bộ trưởng Quốc phòng Úc David Johnston nhấn mạnh, vấn đề biển Đông “cần được giải quyết trên cơ sở luật pháp quốc tế”.

Úc ngày càng bày tỏ quan điểm mạnh mẽ trong bối cảnh Trung Quốc hung hăng khẳng định chủ quyền tại biển Đông và Hoa Đông.

Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe đang tích cực vận động cho việc sửa đổi hiến pháp, mở rộng phạm vi hoạt động của quân đội, cho phép Nhật Bản xuất khẩu vũ khí và hợp tác quân sự với các nước đồng minh. Nhật Bản đang từng bước xây dựng một liên minh quân sự rộng lớn bên trong lẫn bên ngoài hiệp ước song phương Mỹ-Nhật. Nhật và Úc tăng cường hợp tác an ninh quốc phòng, với dự án trao đổi công nghệ tàu ngầm quân sự.

Thủ tướng Úc Tony Abbott ủng hộ chính sách “phòng vệ tập thể của Nhật Bản”. Tân Thủ tướng Ấn Độ Narenda Modi dự kiến thực hiện chuyến công du đầu tiên tới Tokyo và tuyên bố sẽ “đối đầu” với Trung Quốc khi cần thiết. Tại Diễn đàn An ninh Shangri-La vừa qua ở Singapore, Thủ tướng Abe tuyên bố Nhật Bản sẵn sàng trợ giúp các nước Đông Nam Á để bảo vệ chủ quyền biển đảo, gián tiếp lên án Trung Quốc đôi xử với các láng giềng theo kiểu “lấy thịt đè người” mà chính Nhật Bản cũng là nạn nhân.

Giữa thập niên 2000, ý tưởng xây dựng một vành đai an ninh bao gồm Nhật Bản, Ấn Độ và Úc đã được ba vị thủ tướng khi đó là Junichiro Koizumi của Nhật Bản, John Howard của Úc và Atal Vajpayee của Ấn Độ phác thảo và được Tổng thống Mỹ George W.Bush ủng hộ.

Hiện nay, giới quan sát cho rằng, yếu tố Trung Quốc đã thúc đẩy hình thành một “liên minh chiến lược” tứ cường Nhật-Úc-Ấn-Mỹ tại khu vực châu Á-Thái Bình Dương.

Mỹ không để Trung Quốc khuấy đảo biển Đông

Nhà chiến lược người Mỹ Ernest Bower, chuyên gia phân tích về Đông Nam Á tại Trung tâm Nghiên cứu chiến lược và quốc tế ở Washington, cho rằng Trung Quốc đã sai lầm khi nhận định Mỹ sẽ không mạnh tay can thiệp để bảo vệ Việt Nam, trang tin Want China Times của Đài Loan đưa tin ngày 13/6.

Ông Bower chỉ trích mạnh mẽ Trung Quốc kể từ khi nước này ngang nhiên hạ đặt giàn khoan Hải Dương 981 trong vùng biển của Việt Nam. “Rõ ràng, sự hung hăng gần đây của Trung Quốc đã gây nên sự lo ngại tại các nước láng giềng”, ông Bower nói trong cuộc phỏng vấn trên đài phát thanh Đức Deutsche Welle. Tiếp đó, ông phát biểu trên tờ Washington Times (Mỹ): “Bắc Kinh nghĩ rằng Washington lúng túng và không có gan thực hiện một cuộc can thiệp nghiêm trọng, cho nên Trung Quốc mới có động thái địa chính trị là hạ đặt giàn khoan trong vùng thềm lục địa của Việt Nam”.

Trong khi Mỹ lên án những hành động Trung Quốc ở biển Đông là “khiêu khích”, nhiều nhà phân tích chính trị nói rằng, không có lý do gì Mỹ lâm vào một cuộc chiến với Trung Quốc vì Việt Nam, do đây là xung đột song phương. Tuy nhiên, chiến lược gia Bower cho rằng, Mỹ sẽ hỗ trợ quân sự cho Việt Nam tùy thuộc hoàn cảnh; Trung Quốc không nên nhận định sai tình hình. Theo ông, sẽ là sai lầm khi cho rằng Mỹ sẽ không hành động quân sự để cho Trung Quốc mặc sức muốn làm gì thì làm với Việt Nam.


Cherry Radio

Thứ Bảy, 14 tháng 6, 2014

Tướng Brisset: "Trung Quốc sẽ chiếm Biển Đông nếu Việt Nam không lôi kéo được sự chú ý của thế giới"

Hôm nay 14/06/2014 tại khu vực giàn khoan Hải Dương do Trung Quốc đặt trái phép tại vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam trên Biển Đông, các tàu Trung Quốc đã dàn hàng ngang để ngăn cản các tàu cảnh sát biển và kiểm ngư của Việt Nam làm nhiệm vụ cũng như các tàu cá Việt Nam đang đánh bắt, sẵn sàng đâm va.

Từ đầu tháng Năm đến nay, tình hình vẫn luôn căng thẳng tại khu vực này, khiến mọi người đều lo sợ khả năng xảy ra chiến tranh trên biển giữa Việt Nam và Trung Quốc. Tướng không quân Jean-Vincent Brisset, giám đốc nghiên cứu của Viện Quan hệ Quốc tế và Chiến lược (IRIS) chuyên về an ninh châu Á và Trung Quốc, đã vui lòng trả lời RFI Việt ngữ về vấn đề này. 

RFI : Kính chào ông Jean-Vincent Brisset. Thưa ông, tình hình tại Biển Đông xung quanh giàn khoan do Trung Quốc đơn phương kéo đến đặt tại vùng biển gần Hoàng Sa vẫn đang căng thẳng. Không ngày nào không có những vụ tàu Trung Quốc gây hấn, tấn công vào các tàu Việt Nam bằng nhiều hình thức. Liệu sẽ xảy ra chiến tranh tại vùng biển này, hay đây chỉ là chiến tranh cân não ?

Tướng Jean-Vincent Brisset : Hiện giờ chưa có nguy cơ xảy ra chiến tranh do một phía nào đó chủ động gây chiến. Tuy nhiên chiến tranh cũng có thể diễn ra, do Trung Quốc tỏ thái độ vô cùng bạo lực, vô cùng đế quốc, khiến nguy cơ xung đột vẫn hiển hiện. Nếu xảy ra chết người ở phía Việt Nam và các nước khác chẳng hạn, thì đương nhiên sẽ có các vụ trả đũa, gây ra các vụ đối đầu càng lúc càng quan trọng hơn. 

RFI : Thưa ông, việc kiện ra tòa có phải là giải pháp cho các nước liên quan như Việt Nam và Philippines, trong khi Bắc Kinh luôn từ chối ra trước các định chế tư pháp quốc tế ? 

Rõ ràng là Việt Nam, Philippines có các lý do tuyệt hảo khi đi tìm một giải pháp pháp lý, vì khá dễ dàng để chứng tỏ rằng đây là quyền của họ. Giải pháp đi kiện là một giải pháp tốt, do ra trước tòa án quốc tế nào, các nước này cũng có cơ hội thuyết phục rằng họ có lý. Nhưng vấn đề là Trung Quốc không tôn trọng luật lệ quốc tế. 

RFI : Ông có nghĩ Biển Đông là vùng biển mang tính quốc tế ? 

Từ rất lâu Biển Đông là vùng biển quốc tế. Có một số đảo nhỏ được nhiều nước chiếm đóng, nhưng tương đối ổn, không có những yêu sách chủ quyền thô bạo. Có điều Trung Quốc lại quyết định toàn bộ Biển Đông là của mình, bất chấp mọi luật pháp quốc tế. 

RFI : Với tính cách quốc tế của Biển Đông, ông có nghĩ rằng châu Âu nói chung và nước Pháp nói riêng cũng có liên quan, tuy không đứng về phía nào trong tranh chấp ? 

Pháp và các quốc gia châu Âu khác đều có liên quan với tư cách là những nước đã ký vào Công ước quốc tế về Luật Biển, tuy cho đến nay Công ước này không được tôn trọng. Vấn đề là cũng có rủi ro cho các nuớc này, vì một phần lớn trao đổi thương mại hàng hải đi qua khu vực này, đến 40%. Mặt khác châu Âu không có nhiều tiếng nói trong vùng này, Pháp lại càng ít hơn. 

Tôi nghĩ rằng đối với những nước không có mấy trọng lượng để gây áp lực lên Trung Quốc, thì để yên cho Trung Quốc hành động có lợi cho mình hơn là giúp đỡ những nước nhỏ, thế nên thường là họ không có phản ứng. 

RFI : Bắc Kinh luôn đề nghị thương lượng song phương thay vì đa phương … 

Bắc Kinh có thể hy vọng mạnh hơn đối thủ trong các giải pháp song phương. Rõ ràng là Bắc Kinh ít khi tiến hành các giải pháp đa phương, dù là với châu Âu hay với các đối tác khác, mỗi lần có đề nghị thương lượng. Có rất ít trường hợp thương thảo đa phương với Trung Quốc vì không có lợi cho họ bằng song phương. Thế nên Bắc Kinh luôn xoay sở để phá hoại tất cả các toan tính của ASEAN cho giải pháp đa phương về vấn đề an ninh. 

RFI : Nhưng cho đến giờ mọi nỗ lực để đưa vấn đề ra trước các tòa án quốc tế đều thất bại, như ông biết

Tôi cho rằng đối với Việt Nam, Philippines, Malaysia - và không chỉ có thế, bây giờ Indonesia mới phát hiện là họ cũng liên quan, các quốc gia này có quan điểm tôn trọng pháp chế. Họ muốn có được phán quyết của các định chế tư pháp quốc tế, từ các chuyên gia, các tòa án độc lập.

Nhưng vấn đề hiện nay là ở chỗ, mà Trung Quốc hiểu rất rõ, trước hết, kẻ mạnh là người áp đặt luật chơi, và tiếp đến là truyền thông. Các nước kể trên chưa bao giờ là người mạnh nhất, và nhất là họ không liên kết lại để có một giải pháp chung, cũng như không vận dụng báo chí quốc tế. Vì vậy chuyện của họ không được ai quan tâm đến. 

RFI : Như vậy theo ông, các nước này cần nỗ lực tuyên truyền nhiều hơn ? 

Tất nhiên rồi ! 

RFI : Ông nghĩ gì về phản ứng của Hoa Kỳ, Nhật Bản, Trung Quốc và Việt Nam tại Diễn đàn An ninh Khu vực Shangri-la vừa rồi ? 

Người ta thấy rằng quan hệ giữa Nhật Bản và Đài Loan có vấn đề đôi chút liên quan đến quần đảo Senkaku, và giữa Philippines với Đài Loan, đã được giải quyết tương đối ổn với các thỏa thuận hòa bình, chứng tỏ rằng có thể thương lượng được với nhau. Đài Loan là một ví dụ ngạc nhiên và thú vị.

Thú vị hơn là giữa Nhật và Philippines không có quan hệ ngoại giao với Đài Loan nhưng đã thành công trong việc đạt được thỏa ước nhằm tránh xung đột. Điều này cũng chứng tỏ là Trung Quốc khi từ chối các thỏa thuận này là muốn xung đột vì muốn chiếm được Biển Đông, làm thành biển riêng của người Trung Quốc. 

Tôi có thể hiểu được rằng, người Nhật gặp khó khăn với Trung Quốc về hồ sơ Senkaku, cho rằng chính sách của Bắc Kinh rất nguy hiểm cho thế giới. Người Mỹ cũng quan tâm đến vấn đề này vì có lợi ích trực tiếp trong khu vực. Hoa Kỳ được tất cả các nước kêu gọi giúp đỡ vì trước sức mạnh quân sự của Trung Quốc, các nước này không có đủ phương tiện kỹ thuật để đối phó. Giải pháp của họ là kêu gọi sự trợ giúp của Mỹ - một điều mới cách đây vài năm khó thể nghĩ đến. 

Việt Nam cố gắng hòa hoãn vì biết rằng yếu hơn về quân sự cũng như kỹ thuật, không có trọng lượng bao nhiêu đối với truyền thông. 

RFI : Ông có nghĩ rằng có sự hợp tác quân sự giữa Nga và Trung Quốc hay không ? 

Tôi nghĩ rằng giữa Trung Quốc và Nga có nhiều lý do để xung đột với nhau hơn là hợp tác quân sự. Đã có cuộc tập trận chung hết sức giới hạn cả về mặt kỹ thuật lẫn thực tiễn. Có vài sự trao đổi, chẳng hạn như đã có loan báo việc Nga xuất khẩu các thiết bị quân sự phòng không, máy bay tiêm kích…cho Trung Quốc.

Chính các nhà xuất khẩu vừa cho biết rằng việc bán hàng không phải ngay lúc này đã thỏa thuận xong, ngược lại đang bị hoãn. Bởi vì người Nga biết rõ rằng về mặt quân sự, việc « có qua có lại » không hề hiện hữu : Bắc Kinh chỉ muốn nhận được chứ nhất định không muốn cho đi. 

RFI : Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Chuck Hagel đã đả kích thẳng thừng các hành động của Trung Quốc ở Biển Đông. Nhưng phải chăng đây chỉ là nói suông không dẫn đến hành động, mà sự kiện ở bãi cạn Scarborough của Philippines là một ví dụ ? 

Người Mỹ sẽ ngày một hiện diện cụ thể hơn tại Biển Đông. Để tấn công một tàu của Philippines, Malaysia hay Việt Nam như Trung Quốc vẫn thường xuyên làm, họ có nguy cơ gặp phải một chiếc tàu Mỹ đi ngang qua. Bắc Kinh sẽ không muốn nhận lấy rủi ro khi tấn công, đánh chìm một tàu của Mỹ, như họ vẫn tự cho phép. Đánh đắm một chiếc tàu Việt Nam thì dễ dàng thôi, không ai trên thế giới chú ý cả. Ngược lại, đối với tàu Mỹ sẽ gây ra các phản ứng rất nặng nề. 

RFI : Trở lại với giàn khoan Trung Quốc, ông có nghĩ rằng đây là một phần của chiến lược tổng thể của Bắc Kinh – và gần đây người ta còn nói đến một giàn khoan thứ hai nữa. Điều gì sẽ xảy ra nếu họ tiếp tục chiến lược này ? 

Người Trung Quốc sử dụng một chiến lược có thể gọi là trò chơi của trẻ con với cha mẹ. Khi người ta còn bé, người ta thử không chịu nghe lời một chút, và nếu cha mẹ không trừng phạt thì đứa bé sẽ bướng bỉnh hơn. 

RFI : Ông có lời khuyên nào đối với Việt Nam không ? 

Nếu Việt Nam không thành công trong việc làm cho các nước khác trên thế giới chú ý đến vấn đề của mình, thì Trung Quốc sẽ thắng, cũng như họ đã thắng khi chiếm được Hoàng Sa cách đây bốn mươi năm. 

Tất nhiên là Việt Nam phải khởi kiện rồi, nhưng nhất là phải nỗ lực về mặt truyền thông. Nếu Việt Nam muốn thoát khỏi tình trạng hiện nay, thì cần phải làm cho thế giới chú ý đến những gì đang diễn ra tại Biển Đông. 

RFI : Chúng tôi xin chân thành cảm ơn tướng Jean-Vincent Brisset, giám đốc nghiên cứu của Viện Quan hệ Quốc tế và Chiến lược (IRIS), đã vui lòng trả lời RFI Việt ngữ.

Ngư dân Việt chứng kiến Trung Quốc xây dựng ở Gạc Ma

Nhìn từ đảo Cô Lin sang Gạc Ma có thể thấy những bãi cát trắng xóa, các cần cẩu và tàu chiến Trung Quốc túc trực xung quanh đảo.

Ngày 14/6, trao đổi với Đất Việt, ông Lê Tấn Bản, Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn tỉnh Khánh Hòa cho biết, tháng 5 vừa qua ông có chuyến đi ra quần đảo Trường Sa cùng đoàn công tác của tỉnh Khánh Hòa, ông đã thấy công trường của Trung Quốc trên đảo Gạc Ma.

Theo đó, khi ông đứng trên đảo Cô Lin (cách đảo Gạc Ma 7-8 km) cầm ống nhòm nhìn sang đảo Gạc Ma thì thấy những bãi cát trắng xóa, có 3-4 xà lan đậu quanh, trên xà lan có các cần cẩu đang hoạt động. Ngoài ra có 2 tàu hộ vệ tên lửa gần đó, 1 tàu vận tải có lẽ để tiếp tế lương thực.

'Các chiến sĩ ở Cô Lin cũng cho biết, Trung Quốc tiến hành xây dựng trái phép, mở rộng diện tích bãi Gạc Ma thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam cách đây 3-4 tháng. Việt Nam cũng đã có phản ứng đối với Trung Quốc', ông Bản nói.


Các phương tiện của Trung Quốc tham gia xây dựng tại bãi Gạc Ma

Trong khi đó, ông Nguyễn Quốc Chinh, Chủ tịch Nghiệp đoàn nghề cá huyện Lý Sơn (Quảng Ngãi), Ủy viên Nghiệp đoàn nghề cá Việt Nam thông tin ngư dân Quảng Ngãi đánh bắt cá ở Trường Sa báo về, Trung Quốc sử dụng các tàu sắt cũ, bơm đầy bê tông vào dựng thành đảo nhân tạo quanh đảo đá Gạc Ma.

Ông Chinh cũng dẫn lại phản ánh của ngư dân cho biết, khi họ đi qua Gạc Ma, Trung Quốc bắn súng đe dọa, buộc họ phải né bằng cách đi đường khác.

Hiện Lý Sơn có khoảng 30 tàu cá hoạt động ở Trường Sa.

Nhận xét về việc Trung Quốc xây đảo nhân tạo ở bãi Gạc Ma của Việt Nam, ông Chinh cho rằng rất có thể Trung Quốc đang cố mở rộng diện tích để thiết lập vùng nhận dạng phòng không để khống chế Trường Sa.

Còn ông Võ Thiên Lăng, Phó Chủ tịch Hội Nghề cá Việt Nam, Chủ tịch Hội Nghề cá Khánh Hòa nhận định, Gạc Ma gần như là trung tâm của quần đảo Trường Sa, các tàu muốn đến các cụm đảo của Việt Nam đều phải đi qua, do đó việc Trung Quốc xây đảo nhân tạo quanh Gạc Ma là cực kỳ nguy hiểm.

Trung Quốc thay đổi hiện trạng 5 bãi đá ở Trường Sa

Báo cáo từ Phủ tổng thống Philippines cho biết,Trung Quốc đang thay đổi hiện trạng  5 bãi đá là Gạc Ma, Châu Viên, Ga Ven, Tư Nghĩa và Én Đất. Các bãi này nằm trong quần đảo Trường Sa của Việt Nam. Trung Quốc chiếm đóng trái phép các bãi đá, trong khi Philippines cũng tuyên bố chủ quyền.

Chính phủ Philippines hồi tháng 3 đã tố cáo Trung Quốc có những hành động thay đổi hiện trạng ở bãi Gạc Ma.

Bộ Ngoại giao Philippines công bố các bức ảnh cho thấy căn cứ quân sự của Trung Quốc đã mở rộng ra diện tích gần 9 ha chỉ trong hai năm, dẫn tới suy đoán Trung Quốc có thể xây dựng một đường băng và Bắc Kinh sẽ thiết lập vùng nhận dạng phòng không trên Biển Đông một khi đường băng hoạt động.


Thành Luân - Báo Đất Việt

TQ khởi công xây trường học ở Hoàng Sa

Trung Quốc đang xây dựng một trường học trên quần đảo Hoàng Sa mà họ gọi là Tây Sa để cho khoảng 40 con em của các binh sỹ và người dân của họ cư trú trên quần đảo này, hãng tin Mỹ AP cho biết.

Đây được xem là nỗ lực của Bắc Kinh để khẳng định chủ quyền đối với quần đảo mà họ có tranh chấp với Việt Nam này.

Cách nay hai năm, Bắc Kinh đã thiết lập một đơn vị hành chính mới là thành phố Tam Sa thuộc tỉnh Hải Nam bao gồm các quần đảo Tây Sa, Trung Sa và Nam Sa mà phía Việt Nam gọi là Trường Sa.

Đây được xem là thành phố cực nam của Trung Quốc đặt trên đảo Phú Lâm mà Trung Quốc gọi là Vĩnh Hưng với số dân là 1.443 người. ‘Tam Sa’ là căn cứ để Trung Quốc kiểm soát vùng biển mà họ tuyên bố có chủ quyền trên Biển Đông.

Chính quyền thành phố Tam Sa ra thông cáo cho biết công việc xây dựng trường học bắt đầu vào ngày 14/6 và dự kiến sẽ mất 18 tháng để hoàn thành.

Trung Quốc lên án tiếp

Trong một diễn biến khác, hôm thứ Sáu ngày 13/6, Trung Quốc đã lên án mạnh mẽ các hành động của Việt Nam và Philippines tại Biển Đông trong phiên họp lần thứ 24 của các nước tham gia vào Công ước Quốc tế về Luật Biển.

Phó Đại sứ Trung Quốc tại Liên Hiệp Quốc Vương Dân đã thông báo với hội nghị về ‘những hành động khiêu khích’ của phía Việt Nam nhằm cản trở hoạt động của giàn khoan Hải Dương 981 tại vùng biển có tranh chấp gần quần đảo Hoàng Sa, theo tường thuật của Đài truyền hình trung ương Trung Quốc CCTV.

Ông cũng lên án việc Việt Nam tuyên bố có chủ quyền đối với Hoàng Sa vì ông cho rằng chính phủ nước này đã ‘công nhận chủ quyền của Trung Quốc từ năm 1974 trở về trước’.


Ngư dân Trung Quốc đã định cư trên quần đảo Hoàng Sa

“Người Trung Quốc có một câu ngạn ngữ cổ là ‘quan hệ giữa các nước phải dựa trên sự thành thật và đáng tin’. Ngoài ra trong quan hệ quốc tế cũng có một nguyên tắc cơ bản là ‘không nói ngược’. Việt Nam đã nuốt lời hứa, phủ nhận những gì mà họ đã hứa trước. Thử hỏi làm sao Việt Nam có thể xây dựng lòng tin với cộng động quốc tế? Làm sao mà người ta có thể tin vào lời hứa của Việt Nam?” ông Vương phát biểu trước đại biểu các nước.

Về tranh chấp với Philippines cũng trên Biển Đông, ông Vương nói ‘gốc rễ của vấn đề là việc Philippines chiếm giữ phi pháp một số hòn đảo thuộc quần đảo Nam Sa của Trung Quốc và tìm cách sử dụng trọng tài quốc tế để hợp pháp hóa những hành động khiêu khích và xâm phạm của họ cũng như đề giành được sự cảm thông và ủng hộ của cộng đồng quốc tế’.

“Do tranh chấp (giữa Trung Quốc và Philippines) có liên quan đến chủ quyền lãnh thổ và đường biên giới trên biển nên Trung Quốc sẽ không chấp nhận bất cứ cách giải quyết cưỡng ép nào. Việc Trung Quốc bác bỏ bất cứ ý tưởng đưa ra trọng tài giải quyết do Philippines đưa ra là phù hợp với luật pháp quốc tế và lập trường của Trung Quốc trên vấn đề này sẽ không thay đổi,” ông nói.

Nguồn: BBC